Về chữ “dù” (và “dầu”) trong truyện Kiều

14:19 12/05/2014

NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.

Ảnh: internet

Một câu hỏi tất được đặt ra: Vậy Nguyễn Du (cũng như người thời ông) đã phải xoay xở ra sao trong tình cảnh “eo hẹp” về phương tiện diễn đạt như thế?

1. Trả lời câu hỏi vừa nêu, nhà ngữ học Cao Xuân Hạo có đưa ra một giả định: để diễn đạt mấy nghĩa vừa nhắc, Nguyễn Du (và chắc mọi người thời ông đều thế) đã phải dùng DẦU (hay DÙ - dạng song lập của DẦU) làm phương tiện thay thế(1).

Tiếp theo đây, chúng ta hãy cùng nhau đọc lại Truyện Kiều để nghiệm xem mức độ xác thực của điều giả định vừa nhắc.

Theo học giả Đào Duy Anh(2), trong kiệt tác Truyện Kiều, thi hào đã dùng cả thảy 29 lần chữ DẦU (/DÙ). Ngoài dẫn chứng được đích thân tác giả của điều giả định vừa nhắc đưa ra để minh hoạ:

(1) - Mai sau DẦU [=NẾU] có bao giờ (741),(3)
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về;
ta còn gặp các trường hợp sau:

(2) - “DẦU [=NẾU] khi lá thắm chỉ hồng [333],
Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha” .

(3) - [Sinh rằng: “Rày gió mai mưa,
Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi].
DẦU [=NẾU] chăng xét tấm tình si [339],
Thiệt đây mà có ích gì đến ai?”

(4) - “Khuôn thiêng DẦU [=NẾU] phụ tấc thành [343],
Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời”.

(5) - “Lượng xuân DẦU [=NẾU] quyết hẹp hòi [345],
Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!”

(6) - “DẦU [=NẾU] em nên vợ nên chồng [737],
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”.

(7) - Trùng phùng DÙ [=NẾU] hoạ có khi [795],
Thân này thôi có ra gì mà mong.

(8) - Sau DẦU [=NẾU] sinh sự thế nào [861],
Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân.

(9) - [=NẾU]Nàng DÙ quyết chẳng thuận tình [2111],
Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau”.

(10) - [“Thiếp như con én lạc đàn,
“Phải cung rày đã sợ làn cây cong
].
“Cùng đường DÙ [=NẾU] tính chữ tòng[2119],
Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao ?

(11) - [“Nữa khi muôn một thế nào,
“Bán hùm buôn sói chắc vào lưng đâu ?]
DÙ [=NẾU] lòng ai có sở cầu [2123]
“Tâm minh xin quyết với nhau một lời.
“Chứng minh có đất có trời,
“Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì”.


(12) -Duyên em DẦU [=NẾU] nối chỉ hồng[2243],
May ra khi đã tay bồng tay mang.


(13) - “Giác Duyên DÙ [=NẾU] nhớ nghĩa nhau[2691],
“Tiền Đường thả một bè lau cứu người […].

(14) -“[=NẾU] Chàng DÙ nghĩ đến tình xa[3110],
Đem tình cầm sắc đổi ra cầm cờ.”

(15) - “Cửa nhà DÙ [=NẾU] tính về sau [3159],
Thì còn em đó lọ cầu chị đây […]

(16) - “Mai sau DẦU [=NẾU] đến thế nào [905],
Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỷ thần”.

(17) - DÙ [=NẾU] khi gió kép mưa đơn, [1111]
Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!”.

(18) - [“Đôi ta chút nghĩa đèo bòng,
Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh].
DÙ khi sóng gió bất tình [1511]
Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi”.

2. Bên cạnh 1 + 17 trường hợp vừa nêu, cặp từ này dĩ nhiên còn được dùng với cái nghĩa vốn có của nó(4), như:

(18) - “Thà rằng liều một thân con.
“Hoa DÙ rã cánh lá còn xanh cây” [678].

(19) - “Ví DÙ giải kết đến điều [421],
Thì đem vàng đá mà liều với thân”.

(20) - “Phận rầu DẦU vậy cũng dầu [697]
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời”

(21) - “Chị DÙ thịt nát xương mòn [733],
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”,

(22) - Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
“Bây giờ sự đã dường này,
Phận hèn DÙ rủi DÙ may tại người”
. [2072]

3. Tuy nhiên, để bức tranh thật hoàn chỉnh, chắc hẳn chúng ta còn phải kể thêm dăm trường hợp nữa, trong đó thi hào sử dụng hai từ này hoặc là riêng rẻ một mình, hoặc là kết hợp với MẶC/LÒNG để diễn đạt cái nghĩa đại đểĐể tự ý, không can dự vào hoặc không buồn để ý gì tới:

(23) - “Phận rầu dầu vậy cũng DẦU [697]
Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời”

(24) - “Sắm sanh nếp tử xe châu,
Vùi nông một nấm MẶC DẦU cỏ hoa”
[78]

(25) - Trong tay đã sẵn đồng tiền,
DẦU LÒNG đổi trắng thay đen khó gì
![690]

(26) - Phu nhân khen chước rất mầu,
Chiều con mới dạy MẶC DẦU ra tay
[1622]

(27) -[“Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
“Cũng trong thân thích ruột rà chẳng ai.
“Cửa hàng buôn bán châu Thai,
“Thật thà có một đơn sai chẳng hề.
“Thế nào nàng cũng phải nghe,
“Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai
].
“Bấy giờ ai lại biết ai,
“DẦU LÒNG bể rộng sông dài thênh thênh
[2110].

Và một trường hợp duy nhất, trong đó DẦU được dùng dưới dạng láy :

(28) - Thuốc thang suốt một ngày thâu
Giấc mê nghe đã DẦU DẦU vừa tan.
[1002]

Tiếc thay, mấy trường hợp này hình như đã bị học giả Đào Duy Anh bỏ quên chưa cắt nghĩa rõ. Điều đó đã khiến chúng tôi hết sức lúng túng, chưa biết phải diễn giải ra sao cho tương thích.

4. Từ những gì vừa trình bày, chúng ta có thể đi đến một kết luận nhỏ: Phản ánh thật đầy đủ và chân xác cách dùng từ của Nguyễn Du có lẽ đang là một thách thức không hề đơn giản chút nào đối với người biên soạn một pho từ điển Truyện Kiều hoàn hảo.

N.Đ.D
(SDB12/03-14)


..............................................
1. Cao Xuân Hạo. Viết nhịu (LAPSUS CALAMI) Dọn vườn ngôn ngữ học. LC 64. TUY và DÙ. Nxb. Trẻ, 2005, tr. 144-150, nhất là chú thích 3, tr. 145.
2. Đào Duy Anh. Từ điển truyện Kiều, 1974, Nxb. Khoa học Xã hội.
3. Đây là con số chỉ thứ tự của câu Kiều hữu quan trong nguyên bản.
4. Tức đặt trước vế câu chỉ ĐIỀU KIỆN để nêu một giả thiết nhằm nhấn mạnh vào mức độ khó khăn của cái điều kiện ấy, và gây trở ngại đáng kể cho việc hiện thực hóa cái sự thể được diễn đạt bởi tiểu cú chính đi sau (hay nói chính xác hơn là phần Thuyết của câu).













 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.