Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.
Nét duyên của những chiếc trống đại đang nằm ngăn nắp trong phòng trưng bày cùng với hình ảnh cần mẫn, tỉ mỉ của một người con gái gốc gác làng vật Thủ Lễ đang cạo nhẵn từng lớp da trống càng thức tỉnh trí tò mò trong tôi muốn tìm hiểu về người phụ nữ mà đôi lúc đấng nam nhi "sành điệu” trong nghề trống phải thốt lên những lời thán phục.
Buồn, vui cùng nghề trống
Dành trọn cuộc đời cho những chiếc trống, đến nay O Thương vẫn sống tâm huyết với nghề. Hơn 40 năm gây dựng, dù không bảng hiệu rộn ràng, thế nhưng qua truyền miệng mọi người vẫn biết và tìm đến với thương hiệu trống "hai O”. Nghỉ tay bào mấy tấm da trâu làm mặt trống, O Thương tâm sự: " Nghề làm trống là nghề gia truyền của mấy đời gia đình tui. Nghề này do mẹ tui truyền lại. Mẹ mất nên chỉ còn lại mình tui làm nghề trống, mọi người hay nói rằng tui là người phụ nữ duy nhất ở Huế làm trống là rứa đó. Dù làm trống, thu nhập kiếm thêm chỉ vừa đủ để trang trải cho cuộc sống gia đình, thế những tui vẫn thấy vui và cố bám trụ để giữ nghề cho mấy đứa con sau này”.
Để làm ra được một cái trống dù to hay nhỏ cũng đều mất khá nhiều thời gian và trải qua những công đoạn cầu kì khác nhau. Trống hay không chỉ nhờ người gõ mà trước hết là do người làm. Việc chọn da là công đoạn quan trọng nhất, quyết định đến chất lượng cũng như âm thanh của trống, da làm trống phải là da trâu còn tươi, đẹp được đem phơi ngay sau khi mổ, da không được ươn, không được dầm qua hóa chất vì nếu da ươn thì tiếng trống sẽ không hay. Đặc biệt âm thanh của trống cũng phụ thuộc vào độ dày mỏng của da. Do vậy, tùy theo nhu cầu của khách hàng sử dụng trống mà người thợ sẽ khéo léo làm ra những chiếc trống mang những âm thanh phù hợp khác nhau. Cách làm thân trống cũng khá phức tạp, các mảng gỗ mít được bào mỏng theo hình vòm cung với độ dày, mỏng của tang trống phải phù hợp với mỗi loại trống lớn, trung, nhỏ. Sau đó, người thợ sẽ đem trống đi trội rồi đem đi đóng đinh. O Thương cho biết, trống của gia đình O phần lớn là được các khách hàng đặt làm để sử dụng trong các ngày lễ lớn. Việc làm trống Lân là dễ nhất vì chỉ đánh một mùa, tiếp theo là trống lễ, trống hội, trống làng và trống Nhã Nhạc. Còn khó làm nhất là trống chiến. Bởi lẽ, người nhạc công cần đến những mặt trống mỏng, phát ra những âm thanh như mong muốn: Khi đánh vào thân trống sẽ phát ra tiếng c’rắc; đánh vào tang trống phát ra tiếng t’rang tang và phát ra tiếng t’ròn tòn khi đánh vào giữa trống. "Nghề mô cũng rứa chú ơi, phải có cái Tâm cả. Làm trống không như mỳ ăn liền mô. Có khi mình làm năm ni nhưng hai ba năm sau có khi mới bán được trống”, O Thương nói.
Mong cháu con giữ nghề
Mang tiếng nhà ở mặt tiền đường Lê Thánh Tôn nhưng khi vào nhà O Thương tôi mới thật sự có cảm giác lâu rồi " kho trống” của nhà O như cơ thể có phần "thiếu máu” kéo dài. Điều này cũng có nghĩa là cơ sở trống "hai O” hay còn là trống dì Thương xem ra nhiều năm nay làm ăn cũng chẳng lấy gì khấm khá. O Thương cười buồn: "Chục năm trước thì không đến nỗi chi. Nhưng dạo ni, trống ngoài Bắc vô nhiều quá nên bị ảnh hưởng”.
Dẫn tôi vào nhà xem mấy cái trống phần lớn đang làm dở, O Thương nói tiếp: Hàng năm, trống bán được đắt nhất là mùa Trung thu. Còn lại chỉ làm lai rai, sửa chữa mấy cái trống kinh (trống dùng trong chùa), trống đại (trống dùng trong các dịp lễ tế của các nhà thờ họ, trống làng)... nên cũng chỉ đủ cơm cháo qua ngày”. Để giữ được nghề làm trống đứng vững như ngày hôm nay trong câu chuyện O kể với chúng tôi, hình ảnh người ba yêu quý của bà là nghệ nhân Hồ Khách - quê gốc ở làng Thủ Lễ, xã Quảng Phước, huyện Quảng Điền (tỉnh Thừa Thiên – Huế) có tầm ảnh hưởng quan trọng để O Thương quyết tâm giữ nghề. "Ngó rứa chứ đôi lúc cả tháng không ai tới mua trống cũng thấy buồn nhưng phải quyết tâm giữ nghề. Ba tui học nghề trống từ ông nội tui. Thời ông nội răng, tui không rõ. Chỉ biết hồi đó người trong nghề không ai không biết đến ba tui. Ông làm được tất cả các loại trống từ trống kinh, trống chiến (dùng cho nhã nhạc cung đình), trống đại, trống hội (như trống phục vụ trung thu, đua ghe...).
Theo nhạc sĩ, NSƯT Trần Đại Dũng - Phó giám đốc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế, hiện ở Huế chỉ còn có O Thương là người làm được trống chiến với các tiêu chuẩn trên. "Sau nhiều lần khảo cứu, chúng tôi đã nhờ bà phục chế một số loại trống dùng trong tế đàn Nam Giao, Xã Tắc... Những chiếc trống sau khi được bà phục chế được các nhà chuyên môn đánh giá rất cao”, ông Dũng nói.
Năm 2008, O Thương được Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế mời phục chế trống treo ở Lầu Ngũ Phụng trong Đại nội. Bà tự hào lắm: "Đàn bà mấy ai được mời vô trong nội làm việc như tui? Thêm nữa, ba tui ngày xưa làm trong nội, con tui hiện cũng làm trong nội. Nghe thì nghe rứa, nhưng phải đến gần 60 tuổi tui mới được biết trong nội là răng”. Ông Dũng nhận định có chút lo lắng: "Bà Hồ Thị Thương dù không thuộc thế hệ những nhạc công sống trong cung đình, nhưng là người được truyền những bí kíp của nghề làm trống từ chính cha mình - một nghệ nhân nổi tiếng có liên quan đến cung đình. Điều chúng tôi lo lắng nhất là nếu sau này bà không thể làm nghề được, thì những thế hệ sau có thẩm thấu hết kỹ năng nghề nghiệp bà để lại hay không...”?
Theo Đại Đoàn Kết
PHAN VĂN DẬT Tiếp theo kỳ trước (Sông Hương số 16-85)
LTS: Đoạn trích dưới đây nằm trong cuốn sách “Sauvenirs de Hue” (Hồi ký về Huế) do tác giả người Pháp Michel Đức Chaigneau viết vào năm 1867. Ông sinh ở Huế năm 1803 và mất ở Pháp năm 1894, trừ một thời gian trở về nước Pháp, ông đã sống ở Huế 21 năm.
HOÀNG TRUNG THÔNGAnh Hải Triều Nguyễn Khoa Văn sống một cuộc đời đấu tranh cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Tôi được đọc anh từ những bài viết chống nghệ thuật vị nghệ thuật, chống duy tâm và cả lý thuyết cho rằng nước ta không có chế độ phong kiến.
LTS: Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Đạm Phương nữ sử (1881- 2011), 85 năm ra đời Nữ Công Học hội Huế (15.6.1926 - 15.6.2011) do bà Đạm Phương sáng lập, ngày 18.6 tới đây, Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên - Huế và Viện Văn học Việt Nam sẽ tổ chức Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Đây là cuộc hội thảo về Đạm Phương nữ sử lần đầu tiên, và được tổ chức ngay tại Huế, quê hương của Bà.
PHAN VĂN DẬT Một ngày dựa mạn thuyền rồng Cũng bằng muôn kiếp ở trong thuyền chài.
NGUYỄN CƯƠNG Trong giới tu hành và phật tử ở miền Nam từ trước đến nay không mấy ai không biết đến thiện danh và công lao đóng góp cho đạo, cho đời của Sư Bà Thích Nữ Diệu Không.
NGUYỄN PHƯỚC BẢO QUYẾNXưa nay, trong văn học nghệ thuật nói chung và thơ ca nói riêng, Huế được nói đến rất nhiều, nhất là với những người con của Huế trong đó có những hoàng tử của triều Nguyễn đặc biệt là các hoàng tử của triều vua Minh Mạng.
L.T.S: Ông Nguyễn Hải Âu quê ở Hà Nam Ninh. Năm 1941 ông đi lính bị đưa sang Pháp rồi sang Alger. Ở Pháp và Alger ông tham gia lãnh đạo phong trào phản chiến nên bị đưa sang Calcutta, không cho hồi hương.
TRẦN THỊ NHƯ MÂNTrong số những phụ nữ ở Huế mà tôi được gặp lúc thiếu thời, có một khuôn mặt tôi nhớ mãi, không những vì có nhiều quan hệ gần gũi với tôi, mà một lúc nào đó đã có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời tôi. Đó là bà Đạm Phương.
LÊ VĂN HIẾN(Trích hồi ký)
LND: Bửu Đình là một nhà văn có tinh thần yêu nước được các tầng lớp thanh niên thời kỳ trước ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam yêu mến. Vừa rồi, nhân đọc cuốn “Những bí mật trên Côn Đảo” của nhà văn Demario Giang Colotdo viết từ những năm 1935-1936 (xuất bản tại Paris năm 1956) - một cuốn sách ca ngợi khí tiết của những người tù cộng sản trên Côn Đảo, thấy có một chương (1) viết về Bửu Đình, tôi xin dịch để giới thiệu với bạn đọc Sông Hương. Đây là tư liệu đầu tiên giới thiệu Bửu Đình, rất mong bạn đọc và gia đình của nhà văn Bửu Đình cung cấp thêm tư liệu để chúng tôi có thể giới thiệu một cách đầy đủ về nhà văn của núi Ngự sông Hương này.
Vắng mặt Sông Hương suốt mấy trăng,Đuổi xong ma bệnh rước tin mừng…
NGUYỄN ĐẮC XUÂNDo Huế là Kinh đô của triều đại quân chủ ở Việt Nam, cho nên người phụ nữ Huế ngoài dân trăm họ thông thường như các địa phương khác còn có phụ nữ thuộc tầng lớp vương giả sống trong chốn Nội cung nhà Nguyễn như các bà mẹ vua, vợ vua, con gái vua, cháu vua và cung nhân.
TRẦN MINH TÍCHBên bờ phá Tam Giang mênh mông sóng nước, cách thành phố Huế khoảng chừng hai mươi cây số về phía đông nam có vùng đất bạt ngàn cát trắng, nơi đây trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ xâm lược là cái nôi của cách mạng, hàng bao nhiêu hạt giống đỏ được ươm mầm để nhân rộng ra các vùng đất khác, tên gọi của xã vùng cát anh hùng đó là Phú Thạnh bây giờ là Phú Đa.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNThừa Thiên Huế tự hào có Phú Xuân là Kinh đô của nước Việt dưới thời Nguyễn Huệ Quang Trung (1788-1792). Và cũng chính nơi đây đã diễn ra cuộc trả thù nghiệt ngã của dòng họ Nguyễn Phúc dành cho họ Nguyễn Tây Sơn. Do đó những thông tin lịch sử về thời đại Quang Trung và Phong trào Tây Sơn ở Huế đã bị thủ tiêu và làm sai lệch đi khá nhiều.
LIỄU THƯỢNG VĂNQuả thực đã nổi lên sự phong phú đặc biệt khi đứng ở góc nhìn tập trung, tế nhị, để điểm lại một số ảnh hưởng lớn, khó phai nhòa của họ, những khuôn mặt Nữ lừng danh của vùng đất Thuận Hóa.
TRẦN XUÂN THẢOKỷ niệm năm sinh thứ 160 của Tôn Thất Thuyết (1839 - 1999)
BỬU ÝKhi nghe dóng lên câu hỏi: “Người Huế, anh là ai?” có lẽ cùng chẳng ai buồn giật mình hay ngạc nhiên làm gì. Bởi lẽ cái chân dung sẽ được phác hoạ ra chắc chẳng có gì độc đáo. Ai nấy đều đã biết rồi, đã gặp rồi, đã gặp khắp nơi là đằng khác. Dù sao, đây cũng thuộc loại hình ảnh cũ kỹ trong cuốn album gia đình mà anh chị em thường táy máy giở đi giở lại vậy.
N. I. NIKULIN*Khi có dịp đến thăm Huế, tôi đã lang thang rất lâu khắp Kinh đô, khắp các cung điện, đền miếu, lăng tẩm kỳ bí. Ở đây tôi được thưởng ngoạn một nền kiến trúc phức tạp, tinh tế, đẹp mê hồn, ngắm nhìn phong cảnh Huế tuyệt vời từ cửa Ngọ Môn. Tôi hít thở thật sâu bầu không khí kỳ lạ của cố đô được hòa quyện bởi hơi mát của biển và dòng sông Hương huyền diệu. Và lòng đầy xúc động tôi đứng trước ngai vàng triều Nguyễn, ngẫm xem những ai đã từng ngồi trên chiếc ngai vàng này, và đặc biệt tôi nghĩ về một người trong số họ, một con người rất đỗi tài năng và có một số phận không bình thường.
LÊ QUANG THÁIXem chừng cái cổng gỗ vừa bình dị vừa cổ kính ở đường Nguyễn Công Trứ có tiền thân là đường Chợ Cống, trong khoảng hơn 100 năm trở lại, lần lượt thay đổi địa chỉ theo một loạt mã số 21, 27, 29, 31, 33, 47, 63... như đã nói lên tiếng lòng của dân gian trước tốc độ phát triển nhanh chóng của đô thị Huế.