Văn khắc Champa tại làng Vân Thê

14:26 26/01/2021

VŨ HÙNG

Hiện nay, tại nhà thờ tộc Chế làng Vân Thê, xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế, lưu giữ một thanh đá dài khoảng 1,2 m, khá vuông, mỗi cạnh khoảng trên 20 cm, trong đó có một cạnh khắc kín chữ còn khá rõ nét.

Thanh đá tại nhà thờ tộc Chế làng Vân Thê, 04/11/2019. Ảnh: Vũ Hùng

Theo đề tài nghiên cứu “Khảo sát hiện trạng và triển khai thí điểm một số giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị các di tích Champa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”, thực hiện từ năm 2004 đến năm 2008, của Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế, nay là Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, bên cạnh thanh đá này, tại làng Vân Thê còn có hai tượng voi và 2 tượng nam thần1. Tuy nhiên, các tượng trên không còn nữa.

Bên cạnh nhà thờ tộc Chế làng Vân Thê là một gò đất cao nhiều cây cổ thụ gọi là Lâm Lục, nơi có ngôi mộ ngài thủy tổ tộc Chế và miếu thành hoàng của làng thờ người con của vị thủy tổ, tại chỗ đất cao nhất còn có dấu vết một di tích văn hóa Chàm, có thể là một đền tháp. Các tượng voi và nam thần, thanh đá trên được phát hiện tại gò đất Lâm Lục.

Thanh đá có khắc chữ này không có trong các công trình nghiên cứu về văn khắc Chàm từ trước cho đến nay2. Mặc dù đã có một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã đến tìm hiểu nhưng cũng chưa có bản dịch nào về văn khắc này được công bố.

Qua trao đổi hình ảnh tư liệu về thanh đá, các nhà nghiên cứu Jaya Thiên và Sri Jayahajan3 đã dày công giải mã được nhiều nội dung khắc trên thanh đá. Từ trước cho đến nay, chỉ có các nhà nghiên cứu và chuyên gia Phạn ngữ nước ngoài dịch văn khắc Champa sang tiếng Pháp hoặc tiếng Anh sau đó chuyển ngữ sang tiếng Việt. Vì vậy, việc hai nhà nghiên cứu trong nước giải mã văn khắc này trực tiếp sang tiếng Việt là nỗ lực rất trân trọng nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức về giá trị nội dung bản dịch. Trong khi chờ công bố bản dịch đầy đủ, được sự thống nhất của hai nhà nghiên cứu trên, bài viết này cung cấp toàn bộ bản dịch âm, bản dịch nghĩa và từ bản dịch nghĩa có vài suy nghĩ dưới góc độ lịch sử.

Dịch âm:
 



Dịch nghĩa:

 


Ngôn ngữ trong văn khắc là chữ Chàm cổ và chữ Phạn. Văn khắc có 4 dòng, bố cục có 3 phần chính: Khôi phục lại ngôi đền tháp cũ để phụng thờ vị hoàng tử Harijit do hoàng tộc bảo trợ; thời điểm khôi phục vào năm 1268 theo lịch Saka (năm 1346 Tây lịch) bởi các vương tôn; cuối cùng là những đồng ruộng dâng cúng cho khu đền tháp.

Như vậy, khi khôi phục lại đền tháp cũ đã hư hại, văn khắc này có thể là một lanh tô mới gắn trên cửa đền tháp thay cho văn bia.

Thời điểm hình thành văn khắc là năm 1346, sau 40 năm kể từ khi vùng đất này thuộc về Đại Việt. Năm 1306, hai châu Ô và Rí của Chiêm Thành là sính lễ của cuộc hôn nhân giữa vua Chế Mân và công chúa Huyền Trân, năm 1307, nhà Trần đổi châu Ô thành châu Thuận, tương đương tỉnh Quảng Trị ngày nay, đổi châu Rí thành châu Hóa, tương đương vùng đất từ Thừa Thiên Huế đến bờ bắc sông Thu Bồn. Bốn thập kỷ đã thuộc về Đại Việt, người Chàm vẫn ở đây xây dựng và sửa chữa đền tháp, phù hợp với một nhận định rằng: “Giữa đời Trần, tuy có mở thêm đến hai châu Ô Lý, nhưng cũng chỉ là vùng đất cho có mà thôi”7 .

Đền tháp thường thờ Thần - Vua. Văn khắc có ghi “tu viện tôn giáo” nhưng chưa rõ có thờ thần Siva thông qua biểu tượng Linga - Yoni thường thấy tại các khu đền tháp ở miền Trung hay không. Vị vua thờ tại đây là hoàng từ Hajirit. Theo Georges Maspero, hoàng tử Harijit, Sri Harijit là vua Sinhavarman III, tức vua Chế Mân8.

Mặc dù có những dấu hiệu bất đồng trong triều đình Chiêm Thành đối với cuộc hôn nhân lấy đất đai làm sính lễ của Chế Mân, nhưng người Chàm ở châu Rí vẫn tôn kính xây tháp thờ phụng và khi hư hại đã khôi phục lại. Vị “hoàng hậu của hương thơm” và “vị vua thần thánh Sri Yavane” có thể là những người của “dòng dõi hoàng gia” huyết thống của Chế Mân bảo trợ việc khôi phục. Po Nai Kralao, Po Sit, Nai Lamvaik gắn liền với niên đại Saka của văn khắc có thể là những vương tôn tài trợ cho việc khôi phục đền tháp.

Trong suốt thế kỷ 14, ngoại trừ vua Trà Hoa Bố Để, hoàng tộc Chế trị vì Chiêm Thành, từ Chế Mân (1288 - 1307) cho đến Chế Bồng Nga (1360 - 1390). “Vị vua thần thánh Sri Yavane” là vị vua nào trong hoàng tộc Chế?

Sau khi vua Chế Mân qua đời, con trai là Cri Jaya Sinhavarman IV kế vị9, tức Chế Chí. Năm 1312, vị vua này bị bắt, nhà Trần phong người em của ông là Chế Đà A Bà Niêm làm vua, tước Á hầu10. Theo G. Maspero, Chế Đà A Bà Niêm là vua Chế Năng, và đến năm 1318, vị vua này thua trận phải chạy sang Trảo Oa (Java, tức Indonesia ngày nay). Sau Chế Năng, một vị tù trưởng là Chế A Nan lên làm vua (1318 - 1342), đã làm cho thần dân an cư lạc nghiệp, đất nước thái bình và độc lập11. Sau khi Chế A Nan chết, con rể là Trà Hoa Bố Để tự lập làm vua (trị vì từ năm 1342 đến 1360). Năm 1352, người con ruột của Chế An Nan là Chế Mỗ phải chạy sang nhà Trần nhờ giúp để trở lại kế vị nhưng không thành. Phải chăng Chế A Nan chính là “vị vua thần thánh Sri Yavane”12 bảo trợ cho việc khôi phục lại ngôi đền tháp của “người ông vĩ đại xuất sắc” Chế Mân?

Lần đầu tiên hai nhà nghiên cứu trong nước phiên âm, dịch nghĩa một văn khắc chữ Chàm cổ và chữ Phạn, một công việc đòi hỏi không chỉ kiến thức sâu về các ngôn ngữ ấy mà còn đòi hỏi kiến thức đa ngành. Văn khắc tại làng Vân Thê có thể còn những bí ẩn sẽ được làm sáng tỏ khi được giải mã đầy đủ.

V.H  
(SHSDB39/12-2020)

------------------
1, Trần Đức Anh Sơn, “Bảo tồn di sản văn hóa Champa ở Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 127, tháng 7 năm 2020.
2. Karl-Heinz Golzio, Inscriptions of Campa based on the editions and translationsof Abel Bergaigne, Etienne Aymonier, Louis Finot, Edouard Huber and other French scholars and of the work of R. C. Majumdar, Shaker Verlag Aachen 2004.
Arlo  Griffiths,  Amandine  Lepoutre,  William  A. Southworth, Thành Phần, Văn khắc Chămpa tạo Bảo tàng điêu khắc Chăm - Đà Nẵng. The inscription ò Campã at the Museum ò Cham sculpture in Đà Nẵng, Nxb. Đại học Quốc gia TP. HCM, VNU-HCM publishing house, 2012.
3. Hai nhà nghiên cứu Jaya Thiên và Sri Jayahajan, dân tộc Chăm, tỉnh Ninh Thuận.
4. namaś: chúng tôi có một dự kiến từ cho hai đơn vị khó nhận dạng này do hiện trạng xuống cấp của văn khắc, dự kiến đó là dhāna nhưng dấu phụ ś tiếp sau đã đưa đến việc cân nhắc namaś nhiều hơn.
5. ksatrayā: hoặc kṣatrayā, sự khác biệt giữa ṣ hay s thường không còn quan trọng trong các văn khắc văn vần bốn dòng xuất hiện cả tiếng Phạn lẫn tiếng Chàm cổ.
6. grāmṃko: chúng tôi không rõ nghĩa của từ này, giả định của chúng tôi ở đây là tu viện đã được tạo dựng lại ở một địa điểm nào đó tên Ko, nhưng văn cảnh tiếp theo với từ này lại không thích hợp với giả định trên.
- Các ký hiệu số đặt trong dấu ( ), đặt đầu dòng là để đánh dấu số thứ tự dòng văn khắc.
- Các ký hiệu số đặt trong dấu { }, thể hiện những nội dung chữ hoàn toàn không đọc được nữa.
- Các chữ đặt trong dấu ( ), thể hiện nội dung chữ có thể suy đoán được nhờ vào chữ đi kèm với nó.
- Ký hiệu [......] thể hiện nội dung mà tấm bia đã bị hư hại, không còn nhận diện được có hay không có nội dung văn bản tại vị trí bị hư hại đó, nên chúng tôi tạm đặt ký hiệu này.
7. Lê Quang Định, Hoàng Việt nhất thống Dư địa chí, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2003 (Phan Đăng dịch, chú giải và giới thiệu), trang 11.
8. Georges Maspero, Vương quốc Champa, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2020, trang 285, 307, 321.
9. Georges Maspero, Vương quốc Champa, sđd, trang 307.  
10. Đại Việt sử ký toàn thư ( ĐVSKTT), bản in nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697), Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lưu dịch, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2017, trang 266.
11. Georges Maspero, Vương quốc Champa, sđd, trang 310.  
12. Sri Yavane: Sri phiên âm thành Chế, Yavane phiên âm thành A Na? 



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN THUẬN ANMối quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt đã bắt đầu có từ hơn nửa thế kỷ trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong gần 30 năm trở lại đây.

  • NGUYỄN THẾPhước Tích là một trong những ngôi làng được hình thành từ thế kỷ XV thuộc xã Phong Hoà, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ban đầu, vào thời Lê sơ làng có tên là Dõng Quyết, sau đổi thành Phước Giang, đến thời Tây Sơn làng có tên gọi là Hoàng Giang, đến triều các vua Nguyễn, làng được đặt tên là Phước Tích cho đến nay.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHuế là một trung tâm văn hóa Việt Nam, các di tích thuộc Cố đô Huế và Nhã nhạc Cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là hai di sản văn hóa của nhân loại. Điều đó không có gì phải bàn luận nữa. Điều mà chúng ta quan tâm, ngoài cái phần vật chất đó, ngoài Nhã nhạc cung đình Huế thì cái hồn, cái phần phi vật chất của trung tâm văn hóa Huế là cái gì, hiện ở đâu, làm thế nào để có thể tiếp cận và toàn cầu có thể sử dụng phát huy được?

  • NGUYỄN HỮU THÔNG Biểu tượng khu trung tâm trong quan niệm của nhiều tộc người, phần lớn đều liên quan đến các mối thông linh với thế lực siêu nhiên. Hệ đức tin biểu thị từ sự chọn lựa địa điểm thiết lập vùng trung tâm của người xưa, cũng mang mô hình gốc của thần thánh. Sự chọn lựa này có ý nghĩa quyết định và là công việc đầu tiên trong quá trình thiết lập một vùng cư trú.

  • NGUYỄN VĂN CAOLTS: “Thành phố và phát triển địa phương” là hai chủ đề tại Đại hội đồng lần thứ 27 của Hiệp hội Quốc tế các Thị trưởng nói tiếng Pháp (AIMF) tổ chức tại Huế từ ngày 24 đến ngày 26-10-2007, hội tụ trên 200 đại biểu là thị trưởng của các thành phố thành viên thuộc 46 nước trên thế giới. Đây là đại hội đồng lần đầu tiên tổ chức tại Việt và là lần thứ 2 diễn ra tại khu vực Đông Á (năm 2003 đã tổ chức tại Pnômpênh, Campuchia).

  • THÁI DOÃN LONGVà tôi cũng muốn mượn ý châm ngôn về Sêda để nói rằng cái gì thuộc về Quang Trung hãy trả lại cho Hoàng đế Quang Trung.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN Như chúng ta đã biết: Hoàng Cung, Bảo tàng cổ vật, các lăng vua Nguyễn ở Huế là những nơi lưu giữ các cổ vật quý của triều Nguyễn và Huế xưa.

  • PHAN THUẬN THẢO1. Từ quan điểm về hệ thống “Báu vật nhân văn sống” của UNESCO...

  • Những ai đã từng đi đường bộ từ Bắc vào Nam đều phải vượt đèo Hải Vân và đã chứng kiến cái di tích Hải Vân Quan đứng sừng sững trên đỉnh đèo nhìn về phía vịnh Đà Nẵng.

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Toàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.