Vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết “Những kẻ thiện tâm” của Jonathan Littell

14:30 29/06/2009
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

Jonathan Littell sinh năm 1967, tại New York , quốc tịch Mỹ, mang trong mình dòng máu Do Thái. Bố là nhà văn Mỹ nổi tiếng: Robert Littell, rất quan tâm đến cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt . Jonathan Littell học phổ thông ở Pháp, và từng làm từ thiện ở nhiều nơi. Pháp được xem là quê hương thứ hai của ông. Chính vì lẽ đó mà ngôn ngữ Pháp được tác giả chọn để viết tác phẩm này. J.Littell từng tâm sự: “tôi đã lớn lên ở Pháp và được dạy dỗ bằng thứ tiếng đó, sâu xa hơn phần lớn nhà văn tôi yêu quý và gây ảnh hưởng đến tôi - Georges Bataille, Maurice Blanchot, Jean Genet, cũng như Flaubet và Stendhal - đều viết bằng tiếng Pháp. Tôi rất thích sự đa dạng của ngôn ngữ này, đó là sự hoà trộn của tính chính xác và độ mềm dẻo ở nhiều mặt”.


Những kẻ thiện tâm” (NKTT) là một cuốn tiểu thuyết đồ sộ. Chọn vấn đề người kể chuyện (NKC) để nghiên cứu, có thể giúp chúng ta khai mở được vấn đề trung tâm của tác phẩm từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

NKTT là “câu chuyện tự thuật” của Maximilien Aue, nguyên là một sĩ quan SD thuộc SS của quân đội phát xít Đức. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II (1939 - 1945), Aue đã từng tham gia vào cuộc tàn sát diệt chủng người Do Thái. Anh ta có nhiệm vụ quan sát, viết báo cáo về vấn đề này rồi gửi cho Fuhrer, sau đó thuyên chuyển nhiều nơi ở mặt trận Ukraina và Nga. Tại mặt trận Stalingrad , do tình cờ nên đã rơi vào vòng vây của quân Liên Xô, thoát chết như một phép màu sau khi một viên đạn xuyên thủng đầu. Được đưa về hậu phương và thăng chức khi đang nằm trên giường bệnh. Tại Đức, được Reichsfuhrer - SS Himmler nâng đỡ và giới thiệu vào Arbeitseinsatz (phụ trách vấn đề lao động và cưỡng bức) thuộc IKL. Tuy không trực tiếp chiến đấu, nhưng vai trò của Aue lại rất quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của chiến tranh, trong vai trò là một thanh tra chuyên theo dõi, kiểm tra, đưa ra những giải pháp về vấn đề Do Thái.

 Khi quân Đức bắt đầu thất bại thì Aue làm việc tại các trại tập trung KL. Bằng nhiều biện pháp khác nhau, Aue đã tổ chức, quản lí lại lao động Do Thái: lấy những người có sức khoẻ để lao động phục vụ cho ngành công nghiệp quốc phòng đang chạy với tốc lực ngày càng cao, còn những người không có khả năng lao động thì đưa vào lò thiêu. Bằng trí thông minh, lòng nhiệt thành và cách làm việc khoa học, cẩn thận từng chi tiết, Aue đã thành công và giành được nhiều tình cảm, tín nhiệm của cấp trên

Ba mươi năm sau chiến tranh, Aue đang sống an toàn và bình yên dưới cương vị một ông chủ của một nhà máy sản xuất đăngten ở miền Bắc nước Pháp, và một ngày kia Aue đã quyết định kể lại toàn bộ quá khứ của mình “tôi quyết định viết chỉ là để sắp xếp lại mọi chuyện” [1,9]

2. NKTT và những bi kịch cuộc đời con người.

NKTT là một cuốn tiểu thuyết không hề dễ đọc một chút nào. Theo tôi có những cản trở sau:

Thứ nhất, tác phẩm viết về đề tài chiến tranh - một cuộc chiến tranh đã lùi xa, đã có quá nhiều người đề cập. Tác giả lại không kinh qua chiến tranh, việc thu thập số liệu, xử lí, sắp xếp số liệu sao cho phù hợp vào “bàn cờ ma trận” của ngôn từ là điều khó khăn.

Thứ hai, câu chuyện được viết dưới dạng một cuộc truy tìm “kỉ niệm”, nhân vật chính “là một nhà máy sản xuất kỉ niệm thực thụ”[1,10] nên rất dễ rơi vào dạng hồi kí đơn thuần.

Thứ ba, một tác phẩm văn học bày ra trước mắt chúng ta với vô vàn tri thức: lịch sử, văn học, chính trị, kinh tế, ngôn ngữ học, triết học…Vì vậy người tiếp nhận ở đây cần phải có một trình độ hiểu biết nhất định, nếu không sẽ gặp khó khăn ngay từ những trang đầu tiên.

Max Aue là một nhân vật vô cùng phức tạp. Đó là một kiểu con người đa tài, con người tội ác, con người loạn luân, con người sám hối…Tuy nhiên có thể chia Aue thành hai kiểu con người cơ bản là con người chính trị (heimat) và con người cá nhân. Đó là một tri thức Đức rất giỏi Luật, thông minh, nhanh nhẹn, quan sát sự việc tinh tường. Một con người say mê Stendhal, Blanchot, Maupassant, am hiểu Lermontov, Puskin, thông thạo triết học Kant, Hegel, sành điệu nhạc Beethoven, Mozart, Rameau, đặc biệt thích Bach. Nhưng Aue lại có đời sống cá nhân đầy ám ảnh và bệnh hoạn. Quan hệ loạn luân với em gái của mình là Una, quan hệ đồng tính với nhiều người khác …vì thế đã gây ra cho anh nhiều rắc rối sau này.

3. Kết cấu ngầm của văn bản

NKTT là một cuốn tiểu thuyết rất dày. Để dẫn dắt người đọc đi hết trang này sang trang khác, hút người ta vào “ma trận ngôn từ”, theo dõi đến trang cuối cùng quả thực là rất khó khăn, nhưng J.Littell đã sử dụng ngòi bút của mình như một “yêu lực” khiến người ta rơi vào mà không dễ dứt ra.

Tác phẩm được xây dựng trên hai trục chính là: triết lí tội lỗi trong thần thoại Hy Lạp và âm nhạc của Bach. Mở đầu tác phẩm như một lời giáo huấn trích trong kinh thánh “này các anh em con người, hãy nghe tôi kể chuyện đã xảy ra như thế nào” [1,9]. Câu chuyện rất dễ rơi vào trạng thái một bài diễn văn, thuyết trình các sự kiện, số liệu khô khan. Nhưng nhờ hai trục này đã “ép sát” câu chuyện vào thể loại tiểu thuyết. Âm nhạc của Bach và triết lí tội lỗi đã “ứng chiếu” vào cuộc đời của nhân vật, vào mạch ngầm của văn bản. 1.Toccata [1,9->35], 2.Allemande I và II [1,

39->408], 3.Courante [1, 411-> 519], 4.Sarabande [1, 519 -> 619], 5.Menuet (theo thể Roudeau) [2, 7->410], 6.Air [2, 413-> 468], 7.Gigue [2, 471-> 537]

Hai trục này đã tạo ra thế tung - hoành cho tác phẩm tồn tại. Từ đó, J.Littell muốn khái quát lên một quan niệm về con người và cuộc đời: con người cũng như một bản nhạc, dư ba của nó là tinh tuý để lại cho muôn đời sau. Vậy mà con người cũng không thoát ra khỏi những trăn trở, tội lỗi.

4. NKC ngôi thứ nhất tham gia vào câu chuyện.

NKC trong tác phẩm NKTT là tôi - Max Aue. Aue kể lại toàn bộ cuộc đời của mình ở mốc thời gian là chiến tranh thế giới lần thứ II. Như vậy, NKC trùng người trần thuật, trùng nhân vật chính, nhưng lại không trùng với tác giả. Tác giả “toàn tri” sáng tạo ra nhân vật, NKC, người trần thuật hư cấu - tác giả hàm ẩn.

NKC - Aue đã dẫn dắt người đọc đi từ hiện tại cuộc đời của mình (ông chủ của một nhà máy sản xuất đăngten), lùi về quá khứ (khi còn là sĩ quan cuả SS), từ đó toàn bộ cuộc đời của nhân vật hiện lên. Như vậy NKC ở đây thuộc ngôi thứ nhất, nhân chứng đồng sự của câu chuyện.

 Theo nguyên lí tự thuật thì câu chuyện có lúc được kể khách quan theo ý muốn cá nhân nhân vật, nếu không thích thì câu chuyện đó sẽ không được kể, hoặc nếu kể thì tính trung thực của nó cũng giảm đi một nửa sự thực. Tuy nhiên, ở đây nhân vật Aue kể từ A->Z một cách tự nhiên, khách quan như những gì vốn có của nó. Tất cả sự thật, bí mật, những ngóc ngách sâu kín đều được phanh phui dưới con mắt sắc lẹm, lạnh lùng đến kinh ngạc. J.Littell đã không để cho nhân vật của mình độc thoại nhiều mà cho nhân vật đối thoại. Thông qua đối thoại nhân vật khác sẽ nói về vấn đề đó nhiều hơn. Tác giả đã cố đẩy từ cực chủ quan sang cực khách quan đến mức có thể. Ở đó nhân vật chính chỉ kể lại những gì nghe được, quan sát được. Sự đấu tranh nội tâm, sự dằn vặt trong tâm trạng đều bị đẩy lùi vào khoảng không. Đây là đoạn Aue trực tiếp cầm súng tàn sát người Do Thái, tuy nhiên những câu mệnh lệnh không phải do anh phát ra mà do nhân vật Blobel ra lệnh: “Trong những trường hợp như vậy, người ta phải xử sự như một sĩ quan” [1, 157], “thử bắn chết bọn bị thương đi nào[1,158], và tiếp theo là những lời kể tự nhiên. Chi tiết: “tôi rút súng ra và tiến về một nhóm người: một thanh niên rất trẻ rú lên và đau đớn, tôi chĩa súng vào đầu anh ta và bóp cò, nhưng không thấy đạn, tôi đã quên mở chốt an toàn, tôi bèn gạt nó lên và bắn anh ta một phát vào trán, anh ta nhảy dựng ngược lên và đột ngột im lặng[1, 158]. Aue đang sám hối trước tội ác chiến tranh chăng? Không! anh ta đang bị ám ảnh bởi những gì mình gây ra.

 Có khi sự kiện được nhân vật khác kể lại cho nhân vật chính nghe chứ không phải do nhân vật chính chứng kiến. Đây cũng là điểm hạn chế của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm này. Nó chỉ được đặt ở một vị trí duy nhất, đó là điểm nhìn bên trong của Aue. Cho nên có những sự kiện xảy ra trong cùng một thời điểm thì nhân vật, độc giả không biết phải nhờ đến nhân vật khác kể giùm ta mới biết được. Tại mặt trận Stalingrad Aue bị thương, điểm nhìn lúc này bị rơi vào quãng vô thức. Sau khi tỉnh dậy thì sự việc mới được Thomas - một người bạn thân của Aue kể lại. NKC “sợ” câu chuyện không xác thực nên đã xác định rõ ràng “theo truyện kể đó, mà tôi không hề sửa đổi chút nào”, “ở điểm này phiên bản của Thomas tương hợp với lí giải của viên bác sĩ Hohenlichen” [1, 532]. Khi bị rơi vào quãng vô thức đó, NKC vẫn tiếp tục câu chuyện của mình không dừng lại từ đó tạo ra một hiệu ứng là thâm nhập vào khoảng không câm lặng mà nhìn từ bên ngoài chúng ta không thấy được. Đó là sự ám ảnh, những giấc mơ đan quyện cả quá khứ và tương lai nhập nhòa trong dòng vô thức không phân định. Ở chỗ này là câu chuyện cô em gái sinh đôi cuộc gặp gỡ huyễn hoặc, ở chỗ kia là chuyện Aue bị căn bệnh tiêu chảy hành hạ và những ám ảnh chiến tranh rùng rợn… J. Littell đã không ngần ngại để dòng vô thức chảy dài. Bởi lẽ, những quãng vô thức là những chỗ rất khó hiểu, nhà văn thường đề cập nó như một sự biến hoá ngôn ngữ và biết dừng lại ở những chỗ người đọc bắt đầu mất hứng thú. Còn J.Littell vẫn để nguyên cho toàn bộ dòng vô thức đó kéo dài hơn 50 trang giấy, người đọc phải thực sự kiên nhẫn, chịu khó mới có thể thoát ra khỏi mê cung đó.

NKTT được viết dưới dạng tự thuật của một nhân vật hư cấu, tức là NKC sẽ là kẻ “toàn tri biết tuốt” và thoả sức kể những gì mình muốn, không cần có trật tự sắp xếp cụ thể nào. Tuy nhiên trong tác phẩm NKTT, tác giả đã cho NKC kể lại những sự kiện theo một trình tự nhất định, tôi tạm gọi nó là trật tự thời gian trần thuật. Sở dĩ tôi gọi nó như vậy là vì sự hồi cố của nhân vật gắn liền với sự chuyển biến của cuộc chiến tranh - tức là thời gian lịch sử. Cho nên chính lịch sử đã “cưỡng bức” lên cách kể của NKC. Các sự kiện đưa ra được tác giả “đóng khung” trong một thời điểm và một địa điểm nhất định. Ví dụ: “Một tối mùa xuân - đó là năm 1937 tôi đi dạo sau Neursee” [1, 86], “Đầu tháng 8, Sonderkommando bắt tay thực hiện cuộc thanh trừng Jitomir đầu tiên” [1,111]… Trật tự thời gian trần thuật này đạt hiệu quả khi nó “ứng chiếu” vào sự phát triển của các bản nhạc Bach và sự tiến triển ám ảnh tội lỗi trong thần thoại Hi lạp. Tất nhiên không có nghĩa là tất cả đều tuân theo mệnh lệnh của “kẻ toàn tri” – NKC, mà câu chuyện còn bị chi phối bởi những yếu tố, từng tình tiết cụ thể. Cho nên trong sự hồi cố đó lại có quá trình hồi cố tạo ra tầng bậc thứ hai. Tại đây quá khứ tuổi thơ của Aue hiện về: “Mỗi lần tôi quay trở lại kí túc xá ở Nice, cùng với em gái mà hồi đó mà lúc nào tôi cũng quấn quýt bên cạnh, tôi thám hiểm những ngóc ngách…” [1, 490]. Sự hồi tưởng này sẽ được “thức tỉnh” ở hai nguyên nhân: thứ nhất là sự ám ảnh thực tại (thì quá khứ so với lúc kể), thứ hai là do rơi vào trạng thái vô thức - ám ảnh “vùng khuất” bừng dậy. Như vậy toàn bộ kí ức của tác phẩm được hình thành ở ba bậc.

- Bậc 1: Tác giả ở thì hiện tại nhớ về toàn bộ quá khứ “như một nhà máy sản suất kỉ niệm
- Bậc 2: Thì hiện tại của chiến tranh (quá khứ của bậc 1)
- Bậc 3: Quá khứ của tuổi thơ Aue (quá khứ của bậc 1 và bậc 2)

Sở dĩ tôi gọi bậc 2 là thì hiện tại của chiến tranh (thì hiện tại hoàn thành - the present perfect tense) vì đây là toàn bộ nội dung, không gian, thời gian của tác phẩm đã xảy ra trong quá khứ nhưng nó kéo dài và liên quan đến hiện tại. Trong khi đó thì hiện tại bậc 1 chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ - ở phần Toccata (30 trang) sau đó toàn bộ hiện tại bị đẩy về quá khứ và thì này không quay trở lại nữa, hoạ chăng nếu có là để gợi nhắc người đọc “xác định vững chắc” vị trí đứng của mình mà thôi. Vì thế theo tôi nghĩ tác giả đã “đánh tráo” thì bậc 1 và thì bậc 2 cho nhau. Đáng lẽ thì bậc 1 sẽ quán xuyến toàn bộ quá khứ, nhưng nhà văn đã để thì hiện tại bậc 2 làm chủ sân khấu. Người đọc không cân nhắc kĩ vị trí đứng thì rất dễ rơi vào trạng thái theo dõi một câu chuyện viết dưới dạng biên niên sử theo trình tự các mốc thời gian. Chính kiểu “đánh tráo” này mà tạo ra hiệu quả “nhẹ bẫng” đi một phần của câu chuyện.

Hơn nữa hình tượng người trần thuật trùng NKC nhưng có lúc lại đứng tách ra trở thành người bình luận, đánh giá, nhận xét sự kiện thông qua hình thức độc thoại nội tâm, đó là những lời sám hối (phải nhấn mạnh rằng sự sám hối của Aue là rất đáng ngờ). Đây là đoạn Aue đấu tranh sau khi đã tự tay mình giết chết người Do Thái vô tội: “…những ý nghĩ của tôi rối tinh vào nhau rọi chiếu ánh sáng vào nhau trong đầu tôi giống như tiếng ồn của những toa tàu điện ngầm chạy từ ga này sang ga khác…”

NKTT là tác phẩm không dễ đọc nhưng đã đọc thì không thể dứt ra. Những ám ảnh vây bủa tạo ra “ma lực” khủng khiếp. Nó không chỉ hay ở nội dung mà nó thực sự lôi cuốn chúng ta ở nghệ thuật xây dựng thế giới hình tượng điêu luyện, nhuần nhuyễn. NKTT xứng đáng là tác phẩm đạt hai giải thưởng danh giá của Viện hàn lâm văn học Pháp và xứng đáng được đặt trên giá sách của mỗi gia đình.

C.Đ.K
(243/05-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.

  • NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)

  • NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.

  • ĐÀO DUY HIỆP    “Hội làng mở giữa mùa thu     Giời cao gió cả giăng như ban ngày”                                            (Nguyễn Bính)

  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.