Vấn đề người kể chuyện trong tiểu thuyết “Những kẻ thiện tâm” của Jonathan Littell

14:30 29/06/2009
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

Jonathan Littell sinh năm 1967, tại New York , quốc tịch Mỹ, mang trong mình dòng máu Do Thái. Bố là nhà văn Mỹ nổi tiếng: Robert Littell, rất quan tâm đến cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt . Jonathan Littell học phổ thông ở Pháp, và từng làm từ thiện ở nhiều nơi. Pháp được xem là quê hương thứ hai của ông. Chính vì lẽ đó mà ngôn ngữ Pháp được tác giả chọn để viết tác phẩm này. J.Littell từng tâm sự: “tôi đã lớn lên ở Pháp và được dạy dỗ bằng thứ tiếng đó, sâu xa hơn phần lớn nhà văn tôi yêu quý và gây ảnh hưởng đến tôi - Georges Bataille, Maurice Blanchot, Jean Genet, cũng như Flaubet và Stendhal - đều viết bằng tiếng Pháp. Tôi rất thích sự đa dạng của ngôn ngữ này, đó là sự hoà trộn của tính chính xác và độ mềm dẻo ở nhiều mặt”.


Những kẻ thiện tâm” (NKTT) là một cuốn tiểu thuyết đồ sộ. Chọn vấn đề người kể chuyện (NKC) để nghiên cứu, có thể giúp chúng ta khai mở được vấn đề trung tâm của tác phẩm từ hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

NKTT là “câu chuyện tự thuật” của Maximilien Aue, nguyên là một sĩ quan SD thuộc SS của quân đội phát xít Đức. Trong chiến tranh thế giới lần thứ II (1939 - 1945), Aue đã từng tham gia vào cuộc tàn sát diệt chủng người Do Thái. Anh ta có nhiệm vụ quan sát, viết báo cáo về vấn đề này rồi gửi cho Fuhrer, sau đó thuyên chuyển nhiều nơi ở mặt trận Ukraina và Nga. Tại mặt trận Stalingrad , do tình cờ nên đã rơi vào vòng vây của quân Liên Xô, thoát chết như một phép màu sau khi một viên đạn xuyên thủng đầu. Được đưa về hậu phương và thăng chức khi đang nằm trên giường bệnh. Tại Đức, được Reichsfuhrer - SS Himmler nâng đỡ và giới thiệu vào Arbeitseinsatz (phụ trách vấn đề lao động và cưỡng bức) thuộc IKL. Tuy không trực tiếp chiến đấu, nhưng vai trò của Aue lại rất quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển của chiến tranh, trong vai trò là một thanh tra chuyên theo dõi, kiểm tra, đưa ra những giải pháp về vấn đề Do Thái.

 Khi quân Đức bắt đầu thất bại thì Aue làm việc tại các trại tập trung KL. Bằng nhiều biện pháp khác nhau, Aue đã tổ chức, quản lí lại lao động Do Thái: lấy những người có sức khoẻ để lao động phục vụ cho ngành công nghiệp quốc phòng đang chạy với tốc lực ngày càng cao, còn những người không có khả năng lao động thì đưa vào lò thiêu. Bằng trí thông minh, lòng nhiệt thành và cách làm việc khoa học, cẩn thận từng chi tiết, Aue đã thành công và giành được nhiều tình cảm, tín nhiệm của cấp trên

Ba mươi năm sau chiến tranh, Aue đang sống an toàn và bình yên dưới cương vị một ông chủ của một nhà máy sản xuất đăngten ở miền Bắc nước Pháp, và một ngày kia Aue đã quyết định kể lại toàn bộ quá khứ của mình “tôi quyết định viết chỉ là để sắp xếp lại mọi chuyện” [1,9]

2. NKTT và những bi kịch cuộc đời con người.

NKTT là một cuốn tiểu thuyết không hề dễ đọc một chút nào. Theo tôi có những cản trở sau:

Thứ nhất, tác phẩm viết về đề tài chiến tranh - một cuộc chiến tranh đã lùi xa, đã có quá nhiều người đề cập. Tác giả lại không kinh qua chiến tranh, việc thu thập số liệu, xử lí, sắp xếp số liệu sao cho phù hợp vào “bàn cờ ma trận” của ngôn từ là điều khó khăn.

Thứ hai, câu chuyện được viết dưới dạng một cuộc truy tìm “kỉ niệm”, nhân vật chính “là một nhà máy sản xuất kỉ niệm thực thụ”[1,10] nên rất dễ rơi vào dạng hồi kí đơn thuần.

Thứ ba, một tác phẩm văn học bày ra trước mắt chúng ta với vô vàn tri thức: lịch sử, văn học, chính trị, kinh tế, ngôn ngữ học, triết học…Vì vậy người tiếp nhận ở đây cần phải có một trình độ hiểu biết nhất định, nếu không sẽ gặp khó khăn ngay từ những trang đầu tiên.

Max Aue là một nhân vật vô cùng phức tạp. Đó là một kiểu con người đa tài, con người tội ác, con người loạn luân, con người sám hối…Tuy nhiên có thể chia Aue thành hai kiểu con người cơ bản là con người chính trị (heimat) và con người cá nhân. Đó là một tri thức Đức rất giỏi Luật, thông minh, nhanh nhẹn, quan sát sự việc tinh tường. Một con người say mê Stendhal, Blanchot, Maupassant, am hiểu Lermontov, Puskin, thông thạo triết học Kant, Hegel, sành điệu nhạc Beethoven, Mozart, Rameau, đặc biệt thích Bach. Nhưng Aue lại có đời sống cá nhân đầy ám ảnh và bệnh hoạn. Quan hệ loạn luân với em gái của mình là Una, quan hệ đồng tính với nhiều người khác …vì thế đã gây ra cho anh nhiều rắc rối sau này.

3. Kết cấu ngầm của văn bản

NKTT là một cuốn tiểu thuyết rất dày. Để dẫn dắt người đọc đi hết trang này sang trang khác, hút người ta vào “ma trận ngôn từ”, theo dõi đến trang cuối cùng quả thực là rất khó khăn, nhưng J.Littell đã sử dụng ngòi bút của mình như một “yêu lực” khiến người ta rơi vào mà không dễ dứt ra.

Tác phẩm được xây dựng trên hai trục chính là: triết lí tội lỗi trong thần thoại Hy Lạp và âm nhạc của Bach. Mở đầu tác phẩm như một lời giáo huấn trích trong kinh thánh “này các anh em con người, hãy nghe tôi kể chuyện đã xảy ra như thế nào” [1,9]. Câu chuyện rất dễ rơi vào trạng thái một bài diễn văn, thuyết trình các sự kiện, số liệu khô khan. Nhưng nhờ hai trục này đã “ép sát” câu chuyện vào thể loại tiểu thuyết. Âm nhạc của Bach và triết lí tội lỗi đã “ứng chiếu” vào cuộc đời của nhân vật, vào mạch ngầm của văn bản. 1.Toccata [1,9->35], 2.Allemande I và II [1,

39->408], 3.Courante [1, 411-> 519], 4.Sarabande [1, 519 -> 619], 5.Menuet (theo thể Roudeau) [2, 7->410], 6.Air [2, 413-> 468], 7.Gigue [2, 471-> 537]

Hai trục này đã tạo ra thế tung - hoành cho tác phẩm tồn tại. Từ đó, J.Littell muốn khái quát lên một quan niệm về con người và cuộc đời: con người cũng như một bản nhạc, dư ba của nó là tinh tuý để lại cho muôn đời sau. Vậy mà con người cũng không thoát ra khỏi những trăn trở, tội lỗi.

4. NKC ngôi thứ nhất tham gia vào câu chuyện.

NKC trong tác phẩm NKTT là tôi - Max Aue. Aue kể lại toàn bộ cuộc đời của mình ở mốc thời gian là chiến tranh thế giới lần thứ II. Như vậy, NKC trùng người trần thuật, trùng nhân vật chính, nhưng lại không trùng với tác giả. Tác giả “toàn tri” sáng tạo ra nhân vật, NKC, người trần thuật hư cấu - tác giả hàm ẩn.

NKC - Aue đã dẫn dắt người đọc đi từ hiện tại cuộc đời của mình (ông chủ của một nhà máy sản xuất đăngten), lùi về quá khứ (khi còn là sĩ quan cuả SS), từ đó toàn bộ cuộc đời của nhân vật hiện lên. Như vậy NKC ở đây thuộc ngôi thứ nhất, nhân chứng đồng sự của câu chuyện.

 Theo nguyên lí tự thuật thì câu chuyện có lúc được kể khách quan theo ý muốn cá nhân nhân vật, nếu không thích thì câu chuyện đó sẽ không được kể, hoặc nếu kể thì tính trung thực của nó cũng giảm đi một nửa sự thực. Tuy nhiên, ở đây nhân vật Aue kể từ A->Z một cách tự nhiên, khách quan như những gì vốn có của nó. Tất cả sự thật, bí mật, những ngóc ngách sâu kín đều được phanh phui dưới con mắt sắc lẹm, lạnh lùng đến kinh ngạc. J.Littell đã không để cho nhân vật của mình độc thoại nhiều mà cho nhân vật đối thoại. Thông qua đối thoại nhân vật khác sẽ nói về vấn đề đó nhiều hơn. Tác giả đã cố đẩy từ cực chủ quan sang cực khách quan đến mức có thể. Ở đó nhân vật chính chỉ kể lại những gì nghe được, quan sát được. Sự đấu tranh nội tâm, sự dằn vặt trong tâm trạng đều bị đẩy lùi vào khoảng không. Đây là đoạn Aue trực tiếp cầm súng tàn sát người Do Thái, tuy nhiên những câu mệnh lệnh không phải do anh phát ra mà do nhân vật Blobel ra lệnh: “Trong những trường hợp như vậy, người ta phải xử sự như một sĩ quan” [1, 157], “thử bắn chết bọn bị thương đi nào[1,158], và tiếp theo là những lời kể tự nhiên. Chi tiết: “tôi rút súng ra và tiến về một nhóm người: một thanh niên rất trẻ rú lên và đau đớn, tôi chĩa súng vào đầu anh ta và bóp cò, nhưng không thấy đạn, tôi đã quên mở chốt an toàn, tôi bèn gạt nó lên và bắn anh ta một phát vào trán, anh ta nhảy dựng ngược lên và đột ngột im lặng[1, 158]. Aue đang sám hối trước tội ác chiến tranh chăng? Không! anh ta đang bị ám ảnh bởi những gì mình gây ra.

 Có khi sự kiện được nhân vật khác kể lại cho nhân vật chính nghe chứ không phải do nhân vật chính chứng kiến. Đây cũng là điểm hạn chế của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm này. Nó chỉ được đặt ở một vị trí duy nhất, đó là điểm nhìn bên trong của Aue. Cho nên có những sự kiện xảy ra trong cùng một thời điểm thì nhân vật, độc giả không biết phải nhờ đến nhân vật khác kể giùm ta mới biết được. Tại mặt trận Stalingrad Aue bị thương, điểm nhìn lúc này bị rơi vào quãng vô thức. Sau khi tỉnh dậy thì sự việc mới được Thomas - một người bạn thân của Aue kể lại. NKC “sợ” câu chuyện không xác thực nên đã xác định rõ ràng “theo truyện kể đó, mà tôi không hề sửa đổi chút nào”, “ở điểm này phiên bản của Thomas tương hợp với lí giải của viên bác sĩ Hohenlichen” [1, 532]. Khi bị rơi vào quãng vô thức đó, NKC vẫn tiếp tục câu chuyện của mình không dừng lại từ đó tạo ra một hiệu ứng là thâm nhập vào khoảng không câm lặng mà nhìn từ bên ngoài chúng ta không thấy được. Đó là sự ám ảnh, những giấc mơ đan quyện cả quá khứ và tương lai nhập nhòa trong dòng vô thức không phân định. Ở chỗ này là câu chuyện cô em gái sinh đôi cuộc gặp gỡ huyễn hoặc, ở chỗ kia là chuyện Aue bị căn bệnh tiêu chảy hành hạ và những ám ảnh chiến tranh rùng rợn… J. Littell đã không ngần ngại để dòng vô thức chảy dài. Bởi lẽ, những quãng vô thức là những chỗ rất khó hiểu, nhà văn thường đề cập nó như một sự biến hoá ngôn ngữ và biết dừng lại ở những chỗ người đọc bắt đầu mất hứng thú. Còn J.Littell vẫn để nguyên cho toàn bộ dòng vô thức đó kéo dài hơn 50 trang giấy, người đọc phải thực sự kiên nhẫn, chịu khó mới có thể thoát ra khỏi mê cung đó.

NKTT được viết dưới dạng tự thuật của một nhân vật hư cấu, tức là NKC sẽ là kẻ “toàn tri biết tuốt” và thoả sức kể những gì mình muốn, không cần có trật tự sắp xếp cụ thể nào. Tuy nhiên trong tác phẩm NKTT, tác giả đã cho NKC kể lại những sự kiện theo một trình tự nhất định, tôi tạm gọi nó là trật tự thời gian trần thuật. Sở dĩ tôi gọi nó như vậy là vì sự hồi cố của nhân vật gắn liền với sự chuyển biến của cuộc chiến tranh - tức là thời gian lịch sử. Cho nên chính lịch sử đã “cưỡng bức” lên cách kể của NKC. Các sự kiện đưa ra được tác giả “đóng khung” trong một thời điểm và một địa điểm nhất định. Ví dụ: “Một tối mùa xuân - đó là năm 1937 tôi đi dạo sau Neursee” [1, 86], “Đầu tháng 8, Sonderkommando bắt tay thực hiện cuộc thanh trừng Jitomir đầu tiên” [1,111]… Trật tự thời gian trần thuật này đạt hiệu quả khi nó “ứng chiếu” vào sự phát triển của các bản nhạc Bach và sự tiến triển ám ảnh tội lỗi trong thần thoại Hi lạp. Tất nhiên không có nghĩa là tất cả đều tuân theo mệnh lệnh của “kẻ toàn tri” – NKC, mà câu chuyện còn bị chi phối bởi những yếu tố, từng tình tiết cụ thể. Cho nên trong sự hồi cố đó lại có quá trình hồi cố tạo ra tầng bậc thứ hai. Tại đây quá khứ tuổi thơ của Aue hiện về: “Mỗi lần tôi quay trở lại kí túc xá ở Nice, cùng với em gái mà hồi đó mà lúc nào tôi cũng quấn quýt bên cạnh, tôi thám hiểm những ngóc ngách…” [1, 490]. Sự hồi tưởng này sẽ được “thức tỉnh” ở hai nguyên nhân: thứ nhất là sự ám ảnh thực tại (thì quá khứ so với lúc kể), thứ hai là do rơi vào trạng thái vô thức - ám ảnh “vùng khuất” bừng dậy. Như vậy toàn bộ kí ức của tác phẩm được hình thành ở ba bậc.

- Bậc 1: Tác giả ở thì hiện tại nhớ về toàn bộ quá khứ “như một nhà máy sản suất kỉ niệm
- Bậc 2: Thì hiện tại của chiến tranh (quá khứ của bậc 1)
- Bậc 3: Quá khứ của tuổi thơ Aue (quá khứ của bậc 1 và bậc 2)

Sở dĩ tôi gọi bậc 2 là thì hiện tại của chiến tranh (thì hiện tại hoàn thành - the present perfect tense) vì đây là toàn bộ nội dung, không gian, thời gian của tác phẩm đã xảy ra trong quá khứ nhưng nó kéo dài và liên quan đến hiện tại. Trong khi đó thì hiện tại bậc 1 chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ - ở phần Toccata (30 trang) sau đó toàn bộ hiện tại bị đẩy về quá khứ và thì này không quay trở lại nữa, hoạ chăng nếu có là để gợi nhắc người đọc “xác định vững chắc” vị trí đứng của mình mà thôi. Vì thế theo tôi nghĩ tác giả đã “đánh tráo” thì bậc 1 và thì bậc 2 cho nhau. Đáng lẽ thì bậc 1 sẽ quán xuyến toàn bộ quá khứ, nhưng nhà văn đã để thì hiện tại bậc 2 làm chủ sân khấu. Người đọc không cân nhắc kĩ vị trí đứng thì rất dễ rơi vào trạng thái theo dõi một câu chuyện viết dưới dạng biên niên sử theo trình tự các mốc thời gian. Chính kiểu “đánh tráo” này mà tạo ra hiệu quả “nhẹ bẫng” đi một phần của câu chuyện.

Hơn nữa hình tượng người trần thuật trùng NKC nhưng có lúc lại đứng tách ra trở thành người bình luận, đánh giá, nhận xét sự kiện thông qua hình thức độc thoại nội tâm, đó là những lời sám hối (phải nhấn mạnh rằng sự sám hối của Aue là rất đáng ngờ). Đây là đoạn Aue đấu tranh sau khi đã tự tay mình giết chết người Do Thái vô tội: “…những ý nghĩ của tôi rối tinh vào nhau rọi chiếu ánh sáng vào nhau trong đầu tôi giống như tiếng ồn của những toa tàu điện ngầm chạy từ ga này sang ga khác…”

NKTT là tác phẩm không dễ đọc nhưng đã đọc thì không thể dứt ra. Những ám ảnh vây bủa tạo ra “ma lực” khủng khiếp. Nó không chỉ hay ở nội dung mà nó thực sự lôi cuốn chúng ta ở nghệ thuật xây dựng thế giới hình tượng điêu luyện, nhuần nhuyễn. NKTT xứng đáng là tác phẩm đạt hai giải thưởng danh giá của Viện hàn lâm văn học Pháp và xứng đáng được đặt trên giá sách của mỗi gia đình.

C.Đ.K
(243/05-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).