VĨNH PHÚC
Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại không chỉ với thiết chế cổ xúy và ty trúc (Đại nhạc, Tiểu nhạc) như hiện nay.
Cuộc viếng thăm của Hoàng Thái tử Nhật Bản tại Học viện Âm nhạc Huế
Tuy nhiên để phục hồi, phục chế thể chế bát âm của Nhã nhạc không phải ngày một ngày hai. Các loại nhạc khí, dù là những nhạc khí đã thất truyền không còn người sử dụng được như biên khánh, biên chung, chúc, ngữ, huân... vẫn phải phục chế lại. Trước mắt là để trưng bày chuyên biệt như một nhà bảo tàng Nhã nhạc, với đầy đủ các chủng loại nhạc khí thuộc thiết chế Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn, và sau nữa là để phục vụ nghi thức trong việc phục dựng lễ Tế giao, thiết Đại triều... và dù chỉ trưng bày mà không đánh như sử sách đã nêu. Đồng thời, tránh tình trạng làm què quặt và nghèo nàn đi một di sản văn hóa quý giá của dân tộc. Các nhạc cụ thuộc nhóm Ty trúc, nhất là Sáo và đàn Tỳ bà nên chỉnh lại âm theo lối xưa, không nên dùng nhạc cụ cải tiến, gắn thêm phím, khoét thêm lỗ bấm… Trong truyền dạy, khi chưa có một lối ký âm bài bản hoàn chỉnh thì nên tận dụng lối truyền khẩu. Phần ký âm theo kiểu “đô rê mi”, hoặc dù có phiên thêm “họ xừ xang” cũng chỉ nên xem là “phần cứng” để học viên tự vỡ bài, còn việc lên lớp trực tiếp với nghệ nhân mới là phần chủ yếu - kể cả đàn và ca. Với lối dạy truyền khẩu của nghệ nhân, học viên mới lĩnh hội được sự “non, già”, “rung”, “vỗ” đặc trưng của từng bậc âm, từng loại hơi, từng loại bài bản. Tại Học viện âm nhạc Huế hiện nay, Khoa Âm nhạc di sản đang tiếp tục đào tạo bậc đại học chuyên ngành Nhã nhạc (đã được mở mã ngành từ năm 1996) và Ca đàn Huế. Mặc dù đến nay vẫn chưa có một “đặc chế, đặc lệ” trong việc đào tạo lực lượng kế thừa cho loại hình nghệ thuật di sản, như ý kiến Giáo sư Tô Ngọc Thanh bàn về việc đào tạo “nghệ nhân” thay cho “cử nhân” trong Hội thảo Đào tạo âm nhạc di sản khu vực miền Trung - Tây Nguyên tại Học viện âm nhạc Huế tháng 10 năm 2009… Nhưng trong giảng dạy chuyên ngành, khoa vẫn duy trì lối dạy truyền khẩu với đội ngũ nghệ nhân truyền dạy như Trần Thảo, Lệ Hoa, Kim Vàng, Thanh Tâm…. Điều kiện mà UNESCO đặt ra đối với các kiệt tác đã được ghi vào danh mục nhân loại rất nghiêm ngặt. Đó là yêu cầu chống nguy cơ thất truyền và cải biên. Vì vậy, được ghi tên vào danh mục đó đã khó, nhưng giữ nó còn khó hơn. Một thời gian, để “hiện đại hóa” vốn cổ, có lúc dàn nhạc đã được bổ sung thêm nhạc cụ, mở rộng âm vực dàn nhạc theo kiểu tổ bộ của dàn nhạc giao hưởng (!)… Gs.Trần Văn Khê cũng đã từng lên tiếng cảnh báo: “Dàn nhạc giao hưởng phương Tây có đến hơn một trăm cây đàn, đó là nét đặc trưng của họ. Dàn nhạc cung đình Việt Nam cũng có nét đặc sắc riêng, nếu thêm vào đó vài cây sáo, năm bảy cây đàn tranh, chục cây đàn nguyệt... thì làm sao nghe được âm sắc của từng loại nhạc cụ? Điều này cũng giống như không ai được quyền nối dài cánh tay Venus trong bức tượng Venus de Milo hoặc tô đỏ đôi môi nàng Mona Liza. Nói chung, di sản là thứ không thể can thiệp vào”. Công việc này đã có dự án, kế hoạch dài lâu của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, nhưng trước mắt, theo tôi nên ưu tiên quan tâm đến việc phục hồi ban Nữ nhạc. Ban Nữ nhạc tuy tồn tại không lâu, nhưng vẫn nằm trong tổng thể Nhã nhạc cung đình triều Nguyễn. Vì vậy, phục hồi ban Nữ nhạc vừa là một giải pháp bảo tồn vừa tạo được sự hấp dẫn, đặc thù trong việc tổ chức phục vụ du lịch Cung đình. Hơn nữa, dàn Nữ nhạc với các nhạc cụ phổ biến mà hiện nay vẫn đang sử dụng như: Tam, Tỳ, Nhị, Nguyệt, sáo, sinh tiền... thì việc đầu tư về thời gian và kinh phí là không đáng quan ngại.
Thiết chế ban Nữ nhạc là thiết chế ty - trúc. Sử lieu cho biết, dưới thời Minh Mạng: Vua đặt ra bản nhạc Ngũ hưởng cho ban nữ nhạc tấu khi tế các Miếu và tuyển thêm 50 nữ nhạc dưới quyền hai nữ quan điều khiển, đợi lúc tế dâng rượu thì múa nhạc. Ban Nữ nhạc, rất có thể có liên quan đến tên gọi Tế nhạc hay Ty trúc Tế nhạc. Trong Âm nhạc truyền thống Việt Nam của Trần Văn Khê cho biết năm 1832 Đại nhạc và Tế nhạc dùng trong lễ đại triều, từ 1832 bỏ Tế nhạc… Nhưng tác giả lại nói: năm 1838 (Minh Mạng 19) chỉ có Ty trúc tế nhạc dùng để tấu nhạc trong các Miếu, và trong tế Văn miếu, dàn Ty trúc tế nhạc tấu nhạc theo điệu múa Văn… Trong lễ Thánh thọ, lục tuần Hoàng Thái Hậu năm Minh Mạng 1827, (một năm trước khi đổi tên thành Hòa thanh thự) có dàn Nữ nhạc gồm: trống lớn nhỏ, sinh tiền, đàn Nguyệt, đàn Tỳ bà, ống địch, đàn Tam, đàn Nhị. Trong sách Những Đại lễ và Vũ khúc của vua chúa Việt Nam, Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề còn cho biết: trong lễ tế Thế miếu, nhạc công thự Hòa thanh giữ việc đánh chuông, trống. Ban Nữ nhạc đứng trên thềm, đợi ba tuần tế khi dâng rượu thì múa nhạc v.v. Qua tư liệu trên, mặc dù không được xác định một thể chế rõ ràng như Đại nhạc và Nhã nhạc, nhưng vẫn tồn tại một thể loại dàn nhạc. Các chi tiết về việc vua Minh Mạng bỏ Tế nhạc phù hợp với thời điểm bỏ ban Nữ nhạc trong các cuộc tế lễ vì bị cho là tà dâm… cùng với chi tiết ban Nữ nhạc trong Hòa thanh thự ở tế Thế miếu, và chỉ có Ty trúc tế nhạc dùng để tấu trong các miếu, trong Văn miếu thì tấu nhạc theo điệu múa Văn… cho chúng ta nghờ rằng: dàn Ty trúc tế nhạc trong quá khứ phải chăng là Ban Nữ nhạc? Dù sao, sử sách cho biết đã từng tồn tại một dàn Nữ nhạc với đầy đủ cả hình ảnh trang phục, nhạc khí, nên không vì lý do gì mà không phục hồi lại tổ chức dàn nhạc này. Ít nhất là thể hiện được tính đặc thù của Nhã nhạc Việt Nam so với Nhật Bản, Hàn Quốc và chắc chắn sẽ hấp dẫn và thu hút được nhiều khách du lịch đến với Nhã nhạc, đến với Cố đô Huế. V.P (SH275/1-12) |
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.