VÕ VINH QUANG
Tộc Nguyễn Cửu và những dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn hóa xứ Thần Kinh
Theo gia phả tộc Nguyễn Cửu làng Vân Dương (gồm Gia Miêu Bắc phổ và Vân Dương kinh phổ), tộc Nguyễn Cửu vốn họ Nguyễn gốc Gia Miêu, Hà Trung, Thanh Hóa và là họ hàng xa đời với Hoàng tộc Nguyễn Phước (của chúa Nguyễn và vua Nguyễn). Sau khi Nghĩa Lâm hầu Nguyễn Phước Kiều 義林侯阮福喬 (tức Nguyễn Cửu Kiều 阮久喬) nhận mật lệnh của Công nữ Ngọc Tú (con gái của chúa Tiên Nguyễn Hoàng, vợ của Thanh Đô vương Trịnh Tráng) vượt sông Gianh vào phó tá chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, được bổ nhiệm chức Phó tướng Doanh trấn Quảng Bình năm 1623, dòng tộc này được chúa Nguyễn ân điển ban cho tên đệm “Phúc” 福. Đến năm 1820, vua Minh Mệnh ban sắc chỉ cho đổi thành họ Nguyễn Cửu 阮久 (ứng với đời thứ 6 của dòng tộc Nguyễn Cửu ở Nam Hà). Từ đấy, con cháu dòng tộc này chính thức mang họ Nguyễn Cửu cho đến ngày nay.
![]() |
Sách Đại Nam liệt truyện1, phần ghi chép về các danh nhân họ Nguyễn Cửu đã cung cấp cho độc giả những hiểu biết bao quát về các danh nhân của dòng họ Nguyễn Cửu, như sơ tổ ở Nam Hà là Phò mã Đô úy Nghĩa Lâm hầu Nguyễn Cửu Kiều (và vợ là Công nữ Ngọc Đỉnh - con gái thứ của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên), và các công thần triều Nguyễn (chúa Nguyễn và vua Nguyễn) về sau như Trấn quận công Nguyễn Cửu Ứng (con thứ 3 của Nghĩa quận công Nguyễn Cửu Kiều), Trấn thủ Chưởng dinh Dực Đức hầu Nguyễn Cửu Kế (hay còn gọi Dực), Chưởng dinh Phò mã Trung quốc công Nguyễn Cửu Thế (con trai trưởng của Nguyễn Cửu Ứng, thuộc đời thứ 3 họ Nguyễn Cửu làng Vân Dương), Cai cơ Vân Tường hầu Nguyên Cửu Vân (con trưởng của Dực Đức hầu Nguyễn Cửu Kế, đời thứ 3 tộc Nguyễn Cửu làng Vân Dương), Chưởng binh Lễ bộ Hình bộ Cai Đồ gia Phò mã Hoán Quận công Nguyễn Cửu Pháp (con thứ 4 của Trung Quốc công Nguyễn Cửu Thế), Cai cơ Triêm Ân hầu Nguyễn Cửu Triêm (con trưởng của Nguyễn Cửu Vân, thuộc đời thứ 4 Nguyễn Cửu làng Vân Dương), Thăng Bình quận công Nguyễn Cửu Dật (con thứ 4 của Hoán quận công Nguyễn Cửu Pháp, thuộc đời thứ 5 tộc Nguyễn Cửu làng Vân Dương)…
Qua những ghi chép từ Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Vân Dương kinh phổ, Tiên nguyên toát yếu phổ… chúng ta có thể hình dung một số dấu ấn tiêu biểu của dòng tộc Nguyễn Cửu đối với lịch sử văn hóa của đất nước, cũng như của vùng đất Phú Xuân như sau:
(1) Đây là dòng tộc đại công thần của triều Nguyễn (chúa Nguyễn và vua Nguyễn), một đại danh gia vọng tộc nổi tiếng và có sự đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng, phát triển và bảo vệ biên cương Tổ quốc, cũng như cho công cuộc khai phá mở mang vùng đất Nam Bộ. Suốt gần 2 thế kỷ XVII - XVIII, tộc Nguyễn Cửu vẫn vẹn toàn tấm lòng trung nghĩa, hết lòng đóng góp công sức của mình cho chính quyền Đàng Trong, cả trong thời kỳ thịnh vượng an bình lẫn giai đoạn gian nan biến loạn.
Trong sự biến Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn từ cuối năm Giáp Ngọ (1774), Định vương Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ Kinh đô Phú Xuân, cùng gia đình và thân tín dong thuyền chạy vào Nam lánh nạn. Trong đoàn tùy tùng đi theo phò tá chúa Nguyễn thời điểm đó, có nhiều danh tướng họ Nguyễn Cửu như Nguyễn Cửu Pháp, Nguyễn Cửu Dật, Nguyễn Cửu Tuấn, Nguyễn Cửu Đàm, Nguyễn Cửu Sách… đều gắng gỏi hết lòng, trọng đạo bề tôi. Từ biến động đó, một số bề tôi trung tín như Cửu Đàm, Cửu Tuấn, Cửu Dật, Cửu Thống, đã anh dũng hy sinh cho nghiệp lớn.
Từ sau ngày Thế tổ Cao Hoàng đế (vua Gia Long) khôi phục trung hưng, con cháu dòng tộc Nguyễn Cửu tiếp tục nối đời dốc lòng phò tá, đem tài năng và tâm huyết của mình giúp rập vương triều Nguyễn. Có thể kể đến một số danh nhân của dòng tộc Nguyễn Cửu, tiêu biểu như:
+ Nguyễn Cửu Lợi 阮久利 (đời thứ 6), giữ chức Trấn thủ Bắc Ninh. Ông là con thứ 6 của Thạc quận công Nguyễn Cửu Sách và bà Phạm Thị Lan. Theo Vân Dương kinh phổ: Nguyễn Cửu Lợi (1770 - 1832) được thăng làm Thị nội Cai cơ vào năm Gia Long thứ 4 (1805). Năm Gia Long thứ 14 (1815) đổi chức Phó Vệ úy vệ Uy Vũ. Trải thăng đến chức Thành thủ úy ở Bắc Thành kiêm quản Pháo Thủ tuần thành (năm Minh Mệnh 12 - 1831). Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), ông mất, chôn ở vùng đất bằng thuộc địa phận ấp Tứ Tây, xã An Cựu, thọ 71 tuổi.
+ Binh bộ Thượng thư Tả Đô ngự sử Tổng đốc Ninh Thái địa phương Nguyễn Cửu Đức 兵部尚書左都 御史總督寧太地方阮久德: (đời thứ 7 tộc Nguyễn Cửu làng Vân Dương) là con thứ 4 của Thị lang Nguyễn Cửu Thăng, sinh năm Giáp Dần (1794). Minh Mệnh năm đầu (1820), ông được bổ nhiệm làm Cai đội ở Cẩm Y vệ, rồi trải thăng chức Lãnh binh hai xứ Quảng Nam - Nghệ An. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ông được cử đi Hà Nội dẹp loạn và biện biện việc bang giao. Rồi vào kinh thành làm Đề đốc. Tiếp đó, ông lại được chuyển làm Tổng đốc Ninh Thái. Năm Thiệu Trị thứ 5 (1845), ông qua đời ở lỵ sở quan tại tỉnh Bắc Ninh, thọ 52 tuổi. Sau đưa về mai táng ở xứ Ngũ Khê, xã Trúc Lâm, phủ Thừa Thiên.
![]() |
+ Hộ bộ Hữu Thị lang Sung biện Nội các sự vụ Nguyễn Cửu Trường 戶部右侍郎充辨內閣事務阮久長 (đời thứ 7 dòng họ Nguyễn Cửu làng Vân Dương, ban đầu ông tên là Công 功, tự là Thường phủ 常 甫): là con trai đầu của Chủ sự Nguyễn Cửu Hoan2 伍長贈主事阮久歡. Ông sinh vào năm Gia Long thứ 4 (1805); sống ở xã Hoàng Công, tổng Thủy Liên, huyện Lệ Thủy, phủ Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình (nay là Vĩnh Nam, Vĩnh Linh, Quảng Trị). Năm Tân Mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831), ông thi Hương đỗ Tú tài. Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838), ông thi Hội đỗ đầu (đệ nhất danh) và Thi Đình đỗ Đệ Nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Đệ nhất danh (đỗ đầu kỳ thi Đình), được xưng tụng là nhân vật Đình Hội lưỡng nguyên 廷會兩元 (đỗ đầu 2 kỳ thi Hội, thi Đình).
(2) Dòng họ Nguyễn Cửu làng Vân Dương bên cạnh mối quan hệ quân thần (vua tôi), còn có mối kết nối thông gia khá thân thiết, bền vững với tộc Hoàng tộc Nguyễn Phước (điển hình như Nguyễn Cửu Kiều lấy công nữ Ngọc Đỉnh, Nguyễn Cửu Thế cưới công nữ Ngọc Phượng; Công nữ Ngọc Doãn được gả cho Nguyễn Cửu Pháp, Công nữ Ngọc Tuyên là chính thất của Chưởng dinh Nguyễn Cửu Thống…). Có thể nói, mối quan hệ khăng khít ấy đã góp phần thiết đặt một dấu ấn độc đáo trong lịch sử nhà Nguyễn nói riêng, lịch sử Việt Nam nói chung. Điển hình như câu chuyện của công nữ Ngọc Tuyên (Ni cô Vân Dương). Chính người con gái trưởng của chúa Nguyễn Phúc Khoát, người cô ruột của vua Gia Long này là người có công lao đặc biệt đối với công cuộc trung hưng của vương triều Nguyễn, tạo nên một biểu tượng rõ nét cho cầu nối giữa hai dòng tộc Nguyễn Phước - Nguyễn Cửu.
(3) Dòng tộc Nguyễn Cửu nổi danh từ Võ nghiệp và phát huy mạnh mẽ từ Văn nghiệp: Từ thời chúa Nguyễn, dòng tộc này Võ nghiệp hiển danh. Đến triều vua Nguyễn, gia tộc lại phát về nghiệp văn, với danh nhân nổi bật là Hộ bộ Hữu Thị lang Nguyễn Cửu Trường (đời thứ 7).
*
Dòng tộc Nguyễn Cửu làng Vân Dương xứng đáng được xem là một trong những danh gia thế tộc nổi bật đất Nam Hà. Nhiều danh nhân của dòng họ này được liệt thờ vào đền thờ Trung tiết công thần (như Nguyễn Cửu Dật, Nguyễn Cửu Tuấn, Nguyễn Cửu Đàm…), đền Trung hưng công thần (như Nguyễn Cửu Hanh, Nguyễn Cửu Kỷ…); cùng đó là bức hoành phi “Nhất môn trung nghĩa” 壹門忠 義do vua Tự Đức sắc ban vào năm 1849 chính là sự ghi nhận cụ thể công trạng của tộc họ này.
V.V.Q
(SHSDB27/12-2017)
--------------------
1. Gồm sách Đại Nam liệt truyện Tiền biên, quyển 2 (phụ lục Truyện các công chúa; quyển 4: Truyện các bề tôi II: Nguyễn Cửu Kiều, Nguyễn Cửu Thế, Nguyễn Cửu Vân, Nguyễn Cửu Chiêm, Nguyễn Cửu Đàm, Nguyễn Cửu Pháp, Nguyễn Cửu Dật, Nguyễn Cửu Tuấn…); Đại Nam liệt truyện chính biên, quyển 10 (Truyện các công chúa II), quyển 20 (Truyện các quan, mục XVII: Truyện Nguyễn Cửu Hanh), Quyển 30: Truyện chép về Ngụy Tây; Quyển 33: Truyện các quan, mục XXIII (truyện Nguyễn Cửu Trường)…
2. Nguyễn Cửu Hoan 阮久歡 (đời 6) là con trai của Tiệp Tài hầu Nguyễn Cửu Khương (Khang) 捷才侯阮久康, ông giữ chức Trấn thủ Phó tướng Cai cơ ở Doanh Bố Chính (布政營鎮守副將該奇 Bố Chính doanh Phó tướng Cai cơ). Ông Nguyễn Cửu Khương (đời 5) là con thứ 6 của Hoán Quận công Nguyễn Cửu Pháp 奐郡公阮久法 (ông Nguyễn Cửu Pháp (đời 4) là con thứ 4 của Trung quốc công Nguyễn Cửu Thế (đời 3)).
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.
VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.