(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)
Để chuẩn bị cho số chuyên đề về những cây bút trẻ, Tòa soạn Sông Hương đã phỏng vấn một số nhà văn, nhà phê bình với 3 nội dung:
1) Xin cho biết 5 cây bút trẻ có tác phẩm đáng chú ý trong thời gian qua?
2) Những ưu điểm, những đóng góp đáng kể nhất của lực lượng trẻ?
3) Những mặt hạn chế (hoặc là những nhược điểm) của họ? Từ đó, có gì cần nhắn gửi, tâm sự với các cây bút trẻ?
Có ý kiến trả lời không đủ cả 3 nội dung, cũng có ý kiến rộng hơn những vấn đề Tòa soạn đặt ra. Cùng với bài viết của nhà văn Nguyên Ngọc, Trưởng ban sáng tác Hội nhà văn Việt Nam, những ý kiến chúng tôi giới thiệu sau đây sẽ đóng góp một cách nhìn, một cách đánh giá tình hình văn học vừa qua thể hiện qua những cây bút trẻ (Chúng tôi cũng đã gửi phỏng vấn tới nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú và nhà thơ Hữu Thỉnh, 2 ủy viên BCH Hội nhà văn đặc trách công tác hội viên, nhưng rất tiếc chưa nhận được bài trả lời.)
SH
NGUYỄN VĂN BỔNG
I- Mắt tôi hiện nay đọc rất khó. Tuy vậy, gặp những truyện như Dị mộng của Cung Tích Biền trên Sông Hương số 2 năm 1990 - với tên của tác giả và truyện được in trên giấy trắng chữ rõ- tôi đã cố đọc và rất mừng thấy Cung Tích Biền vẫn tiếp tục viết. Tôi mong được gặp trên sách báo của ta ngày nay không chỉ những cây bút mới mà cả những cây bút đã từng quen biết trước đây ở Sài Gòn và các đô thị miền Nam.
Cũng có những tác phẩm tôi nhờ đọc để biết như gần đây Đám cưới không có giá thú của Ma Văn Kháng, hay Góc tăm tối cuối cùng của Khuất Quang Thụy... Nhưng phần lớn là tôi lắng nghe các dư luận trên báo chí, hoặc giữa bạn bè, anh em, thì thấy trong văn học của ta hiện nay quả thật có những cái mới đáng mừng. Cái mới đáng kể nhất là nó đã góp phần phá vỡ những cấm kỵ - hoặc thành văn, hoặc không thành văn, có điều có lý hay cần thiết trong hoàn cảnh lịch sử nhất định, nhưng nhiều điều vô lý và không cần thiết - những cấm kỵ đã gây nên gò bó, kể cả lo sợ, trở ngại cho sáng tác văn học nghệ thuật.
Chiều hướng đó trong văn học ta hiện nay cần được khuyến khích mạnh mẽ, cần được bảo vệ chống lại những sự đả phá, hạn chế. Tuy nhiên cũng đã đến lúc không nên bỏ qua những lệch lạc sẽ làm chậm phát triển nền văn học của chúng ta. Tôi không muốn nói về những quyển sách chạy theo thị hiếu tầm thường của người đọc đang lan tràn trên thị trường. Tôi cũng không muốn nói đến những sách viết ẩu hay còn quá vụng về, mà bằng cách này hay cách khác vẫn được tung ra... Tôi muốn nói về những cây bút đầy tâm huyết, viết về những vấn đề mình ôm ấp từ lâu và, đã tạo ra tác phẩm có giá trị như trường hợp Đám cưới không có giá thú. Trong những quyển sách tôi được biết hiện nay, đây là quyển tiểu thuyết tôi thấy "dữ dội" nhất, không phải vì nó dồn nói về cái xấu, cái tiêu cực; không phải nó động đến những nhân vật này hay tập thể kia; mà vì nó động đến những vấn đề trọng đại trong xã hội: chính trị, tôn giáo, đạo đức... với những suy nghĩ mạnh dạn, phần lớn rõ ràng là đúng, nhưng đây đó không khỏi không có những suy nghĩ cần được thảo luận lại.
Sự đổi mới trong văn học cần những sự trao đổi, thảo luận công khai và thiện ý đối với nền văn học, đối với các tác giả.
Ngoài những quyển như Thời xa vắng của Lê Lựu, các truyện của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... tôi được đọc từ các năm trước, gần đây tôi nghe nói đến hàng chục, hơn cả chục tác phẩm đáng chú ý khác của các cây bút trong Nam, ngoài Bắc, cũ có, mới có... nhưng tiếc là tôi không đọc được, nên không thể trả lời câu hỏi này.
II. Tôi có thể nói gì với các anh chị em viết trẻ?
Tôi vừa nghe đọc xong truyện Thập giá gỗ của Lê Đình Trường trên tạp chí Tác phẩm mới số 2 năm 1990. Tôi biết tác giả ở Cà Mau, nhưng chưa gặp, chưa đọc gì của anh. Tôi coi anh là một cây bút trẻ, nhưng với một cây bút trẻ viết được một truyện như vậy, tôi biết nói gì? cần phải nói gì?...
Nếu phải nói, cũng chỉ quanh việc đổi mới của Văn học ta hiện nay. Văn học luôn luôn phản ứng lại cái cũ, cái mòn, cái quen thuộc. Bên cạnh sự đòi hỏi của xã hội, bản thân văn học cũng luôn luôn đòi đổi mới; trước năm 1945, văn học chúng ta đã có dòng hiện thực, dòng lãng mạn, có các thứ văn học đồi trụy, siêu hình, văn học đi vào ngóc ngách của tâm hồn, đi vào tâm linh, tiềm thức, vô thức. Có những giọng văn tàn nhẫn, kênh kiệu, chửi bới lung tung; có loại văn "hở nút" như thách đố mọi người... Đủ cả! Nếu không có Cách mạng tháng Tám, chưa biết văn học ta hồi bấy giờ còn đi đến đâu? Chắc sẽ có văn học hiện sinh, văn học phi lý, văn học cấu trúc, "tiểu thuyết mới" vân vân và vân vân...
Các nhà văn chúng ta trước 1945 đã bắt đầu thấy chán ngán, may thay có Cách mạng tháng Tám! Một cuộc đổi đời thật sự, đổi mới tư duy lớn lao. Họ lao theo cách mạng, theo kháng chiến với tất cả nhiệt tình người công dân và người cầm bút. Họ háo hức xây dựng một nền văn học mới, chứa đựng một chủ nghĩa nhân văn mới. Họ nhiệt tình muốn xây dựng những con người mới, một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Thiện chí của họ không có gì đáng chê trách. Nền văn học họ góp phần xây dựng nên trong năm mươi năm qua rất đáng tự hào. Tuy nhiên, vì những lý do này khác, mà chủ yếu là các quan niệm thô thiển, máy móc, thực dụng chủ nghĩa về văn học, nên đã có những hạn chế, khiến từ sau 1975, trong đời sống đòi hỏi đổi mới người ta thấy nhàm chán với nó. Người ta đổ xô vào tìm cái mới trong sách dịch của nước ngoài. Người ta quay lại với "cái mới" trong văn học lãng mạn trước 1945. Người ta chán ngán với các vấn đề chính trị, xã hội, trở lại với những vấn đề sâu kín của con người, đi vào tâm linh, tiềm thức, vô thức...
Phải ủng hộ mọi sự tìm tòi, đổi mới; thật sự vui mừng với những kết quả dầu còn nhỏ nhoi, non nớt. Nhưng phải là của thật. Văn học phản ứng lại cái cũ, cái mòn, nhưng văn học cũng chống lại cái giả. Tìm tòi, đổi mới phải tự đầu óc, trái tim, máu thịt của chính mình. Không thể có cái mới nào với vay mượn, bắt chước, học đòi, chạy theo thị hiếu, thời thượng. Không phải ai cũng ca tụng hay, hoặc phê phán hay. Không phải ai cũng viết giỏi về các vấn đề xã hội, hoặc biết tinh tế về các vấn đề của con người. Không phải ai cũng có cái nhìn sắc cạnh đối với thực tế đời sống, hoặc có trí tưởng tượng huyền ảo về thực tế... Tùy "cái tạng" của mỗi người chúng ta. Tùy hoàn cảnh đào tạo, trưởng thành của mỗi chúng ta.
Tìm được mình trong văn học rất khó. Có người hì hục suốt đời, đến những ngày cuối cùng mới chợt thấy mình lầm đường! Phải chân thành tự tìm mình từ những bước đi đầu, sẽ góp được cái mới của mình cho văn học.
4-90
XUÂN CANG
1- Những tác phẩm của Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài; Phiên chợ Giát (Nguyễn Minh Châu). Nhà thơ áp tải (Thơ- Trần Nhuận Minh). Ngoài khơi miền đất hứa (Nguyễn Quang Thân).
2- Những cố gắng phát hiện khám phá. Những tìm tòi riêng, những phong cách riêng, những lối nghĩ riêng, độc lập, cay đắng và đau đớn, trần trụi giữa đời thường, không biết sợ. Viết ít, sắc lẻm. Không ồn ào, không coi thường bạn đọc. Chọn bạn đọc cho mình. Đầy tì vết. Sù sì, gai góc.
3- Nhắn thôi. Chẳng nhủ và khuyên được gì hết. Một bên là núi cao, một bên là vực thẳm, phía trước trời hửng sáng, đằng sau cầu đã cắt, không có lối lùi, trên mình trang bị đầy máy móc mới nhưng không dựa được vào bất cứ thông tin nào hết, bản thân mình cũng là một cái máy phát. Đi chậm choại đầy nguy hiểm và đầy tự tin. Nhưng phải đi như thế mà thôi. Cả nhân loại đang dò dẫm. Chúng ta không đi một mình, không ồn ào, không sa đà. Vừa đi vừa hát những bài ca riêng của mình. Làm việc không ngừng. Chưa bao giờ dễ viết hay như bây giờ. Chưa bao giờ sáng tác bung ra như bây giờ. Nhưng cũng chưa bao giờ viết khó như bây giờ.
NGUYỄN KIÊN
Gần đây tôi có tham gia đọc bản thảo cho một vài cuộc vận động sáng tác và tuyển chọn truyện của các tác giả trẻ để làm sách, tôi xin trả lời câu hỏi 2 và 3.
2) Những người viết trẻ hiện nay khá đông, ở hầu khắp các miền đất nước, anh chị em viết nhiều, một số viết khá hay hoặc có những nét đặc sắc. Văn học ta trong giai đoạn trước thiếu đa dạng. Sự đóng góp của các tác giả trẻ, làm cho văn học ta đa dạng hơn, là rõ ràng. Nhiều tác giả trẻ có sự xông xáo và ý thức tìm tòi ráo riết trong cách cảm nhận cuộc sống và cách biểu hiện mà đôi khi, theo một thói quen nào đó, người ta thấy có cái gì lạ lẫm, có cái gì quá lớn. Đây là bước khởi đầu, với mặt mạnh và mặt yếu của một lực lượng mà chỉ một ngày mai gần gũi sẽ trở thành lực lượng chủ chốt của phong trào sáng tác.
3) Văn chương vừa là nghề vừa là một nghiệp mà người cầm bút tự vận vào mình. Có người viết lúc đầu chưa hay, về sau mới hay. Có người thì ngược lại. Cũng có người cứ viết đều đều mà chẳng bao giờ hay cả. Nó có vẻ rắc rối như thế không ai dám nói chắc. Nhưng có lẽ vì thế mà văn chương không chỉ là nghề như mọi thứ nghề.
HÀ MINH ĐỨC
Trong những năm gần đây văn học ta đang có một xu thế phát triển mới đặc biệt là trong văn xuôi. Cái khác biệt với những sáng tác trước đây là ở cách nhìn cuộc sống một cách thẳng thắn, chân thực không chịu những ràng buộc sách vở và định kiến xã hội, ở sự quan tâm đến số phận của con người trong dòng đời với nhiều mối quan hệ phong phú phức tạp, ở cách xử lý có tính chất nhân bản nhiều vấn đề xã hội. Và riêng nghệ thuật thực sự đã tạo được nhiều màu sắc – thẩm mỹ mới. Phần lớn những tác phẩm trên thuộc về những nhà văn đang sung sức của thời kỳ chống Mỹ, lớp nhà văn xuất hiện sau 1975 và nhiều tác giả trẻ. Nhiều cuốn tiểu thuyết cũng như truyện ngắn đầu tay của các tác giả trẻ đã ở một điểm xuất phát cao, có sức thuyết phục về tư tưởng và nghệ thuật. Tôi xin chân thành bày tỏ niềm vui và lòng tin cậy.
HOÀNG NGỌC HIẾN
1) Tôi quan niệm nhà văn trẻ là từ lứa tuổi ba mươi trở xuống. Phạm Thị Hoài, (sinh năm 1960), Tạ Duy Anh (sinh năm 1959) là hai nhà văn đang được công luận chú ý và tuổi đời còn trẻ.
2) Viết được và viết hay đôi điều mà những nhà văn ưu tú các thế hệ trước không viết.
3) Không viết được nhiều điều mà những nhà văn ưu tú thế hệ trước thời trẻ viết rất giỏi.
(TCSH43/06-1990)
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!
ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)
MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.
VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.
Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.
CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.
ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.
HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.
FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.
ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.
TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.