Vài kỷ niệm với cố nhạc sĩ Trương Minh Phương

15:43 12/01/2016

TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG

Thật vui mừng và xúc động khi cầm trên tay tập sách Rừng hát của cố nhạc sĩ Trương Minh Phương do gia đình tặng. Tuyển tập dày 1.328 trang, chia làm 4 phần, tập hợp những sáng tác, nghiên cứu văn học nghệ thuật trong cuộc đời của nhạc sĩ.

Phần 1: Giai điệu: Giới thiệu 128 ca khúc nhạc sĩ đã viết trong suốt 60 năm, từ năm 1951 đến cuối đời.

Phần 2: Bên cánh màn nhung: Giới thiệu 80 kịch bản sân khấu, gồm kịch nói, ca kịch, ca cảnh, kịch bản thông tin và tiểu phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, nhiều vở kịch mang tầm tư tưởng lớn về truyền thống cách mạng cả trong chiến đấu cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phần 3: Muôn sắc: Giới thiệu 8 tác phẩm là những công trình nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý về dân ca, dân nhạc, dân vũ, nhạc cụ dân tộc của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Trị Thiên trước đây và Thừa Thiên Huế sau này.

Phần 4: Những điều cảm nhận: Tập hợp 12 bài viết của các tác giả là những nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu về các tác phẩm, công trình âm nhạc, văn học, sân khấu, nghiên cứu, sưu tầm của nhạc sĩ Minh Phương.

Tôi thực sự bồi hồi khi những kỉ niệm ập về trong tôi và khiến những điều, những kỉ niệm mà tôi ấp ủ bấy lâu, nay lại có dịp được viết và kể ra đây.

Tôi là người có duyên may khi được gặp nhạc sĩ Minh Phương tại A Lưới trong suốt thời gian gần 10 năm. Cái ngày ấy, đường lên A Lưới còn khó khăn, xe đò chỉ có 1 chuyến/ngày, sáng 7 giờ xuất bến ở Huế thì đến 16 giờ mới đến được trung tâm thị trấn A Lưới; trong những chuyến xe lên về ngày ấy đều có nhạc sĩ Minh Phương.

Nhạc sĩ Minh Phương lên A Lưới nhiều lần cũng vì nhiều việc khác nhau, có khi là đi sáng tác, có khi là đi dự các hội thi mà chính nhạc sĩ là thành viên của Ban giám khảo. Nhưng có lẽ kỷ niệm nhất là những lần nhạc sĩ lên A Lưới làm cố vấn chương trình cho Đội Thông tin lưu động huyện A Lưới. Nhạc sĩ là một vị khách quý, nói như người vùng cao: Đồng bào các dân tộc thiểu số ở A Lưới mỗi khi có khách quý đến nhà thì đãi cơm gạo quý Radư. Mỗi lần nhạc sĩ lên thì được bạn bè đồng nghiệp văn nghệ sĩ địa phương đón tiếp nồng hậu bằng gạo quý Radư. Những lúc ấy, tôi có nhiệm vụ đưa nhạc sĩ đi vào các thôn bản.

Nhạc sĩ Minh Phương rất thích đi thăm bà con ở thôn bản, nhất là ở vùng càng xa trung tâm huyện càng tốt, bởi vì bà con rất chân thật, mến khách. Nhạc sĩ kể: “Khi làm cuốn sách Dư âm tình rừng, mình đội ơn bà con nhiều lắm, nhớ mẹ Kăn Gương ở xã Hương Lâm kể cho nghe nhiều chuyện, được mẹ Kăn Hắt ở xã Hồng Thượng hát cho nhiều bản dân ca Cha chấp. Cứ mỗi lần lên A Lưới là lại nhớ đến những người mẹ Tà Ôi, Pa Cô ru con với điệu Ru akay nồng nàn, da diết”.

Thuở ấy tôi chưa có xe máy mà lại đi chiếc xe đạp phượng hoàng để đưa nhạc sĩ đi vào thôn A Hưa, xã Nhâm. Lúc đầu, tôi rất khó xử vì không biết nhạc sĩ có chịu đi xe đạp cùng mình không, nhưng rồi khi gặp nhau trao đổi kế hoạch đi cơ sở thì nhạc sĩ nói: “Phong à, mình cũng như Phong thôi, khách sáo làm gì, cứ đèo nhau trên một chiếc xe đạp cũng được, đi chậm thì có thời giờ nói chuyện nhiều hơn”. Nghe đến đó, tôi mừng lắm, vì được đưa một nhạc sĩ, một vị khách của huyện đi thăm bà con thôn bản bằng xe đạp thì oách còn gì bằng. Và chính lần đi đó tôi đã học được rất nhiều điều ở nhạc sĩ.

 


Vào đến thôn A Hưa, xã Nhâm, khi đến thăm ngôi nhà Rông của thôn, nhìn thấy những bức phù điêu trang trí, những bức tượng gỗ, nhạc sĩ đã giải thích cho tôi nghe những kiểu thức trang trí hoa văn cũng như giá trị và chức năng của ngôi nhà sàn. Nhạc sĩ lanh lẹ, thoăn thoắt trông giống như một hướng dẫn viên thực thụ. Lúc đó có bác Hồ Viên Pưa là Chủ tịch UBND xã Nhâm, nhà bác Pưa ở ngay cạnh ngôi nhà Rông đó, khi nghe nhạc sĩ giới thiệu ngôi nhà Rông thì bác Pưa thán phục, khen tài của nhạc sĩ và mời qua nhà chơi.

Nhạc sĩ Minh Phương là người rất trăn trở về âm nhạc dân gian các dân tộc thiểu số, khi nhìn thấy những chiếc khèn bè, chiếc trống, chiếc tù và sừng trâu, đàn Ta lư, đàn A bel, nhạc sĩ đã hướng dẫn cho bà con cách bảo quản để chống mối mọt. Bác cũng căn dặn anh chị em của Đội thông tin lưu động cũng như các cán bộ của Phòng Văn hóa Thông tin A Lưới phải hướng dẫn, truyền dạy lại cho bà con trong vùng về cách trình diễn âm nhạc sao cho có bài bản, thế hệ trẻ phải biết làm nhạc cụ. Huyện cũng cần có một phòng trưng bày nhạc cụ để mỗi khi đi lưu diễn khỏi phải mượn của bà con.

Một điều đáng nể ở nhạc sĩ Minh Phương là phong cách làm việc, theo là thấy gì, nghe gì thì ghi chép nấy. Cho nên, trong hành trang mỗi khi lên A Lưới bác thường mang theo máy ảnh, sổ ghi chép, vài ba cây viết. Bác vừa trao đổi, hỏi chuyện thân mật vừa tốc kí nhanh. Bác nói “Sau một ngày đi điền dã về thì nên tranh thủ thời gian mà xử lí tư liệu ngay kẻo không thì sẽ quên hoặc mất thì tiếc, khó mà ghi lại được. Nhưng mà bác rất tiếc là các nghệ nhân cao tuổi lần lượt ra đi, để lại một lổ hổng lớn về văn hóa văn nghệ dân gian không có gì bù đắp nổi”.

Tôi may mắn được nhạc sĩ Minh Phương dìu dắt từng bước một trên con đường sưu tầm nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số ở A Lưới. Chính bác bày cho tôi cách điền dã, sưu tầm các hiện vật dân tộc học. Tôi còn nhớ mãi lời dặn của bác: “Khi đi sưu tầm hiện vật chúng ta nên phân ra các chủ đề cho dễ với công việc. Bác thấy ở A Lưới đồng bào sử dụng hiện vật vào các chủ đề sau: nhạc cụ, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, bộ dụng cụ bẫy thú, bộ dụng cụ đánh bắt cá; trang phục, trang sức; tượng gỗ. Cho nên mình cần sưu tầm, gìn giữ lại các bộ váy, áo dzèng, các nhạc cụ, các cối chày, chum, gùi… để sau này con cháu có thấy đó mà nhớ về văn hóa truyền thống cha ông”.

Thật đúng như vậy, sau mỗi năm tôi thường hay về Huế và ghé đến nhà của bác, như vừa để báo cáo tình hình công việc của mình mà bác đã truyền dạy, cũng vừa hỏi thăm sức khỏe và công việc của bác. Thật vui khi nghe tin bác có những đầu sách mới xuất bản. Có lần bác gửi lên tặng cho học sinh A Lưới sách Gió thoảng hương bay, đó là món quà mà ai ai cũng vui mừng.

Sau đó, cứ mỗi khi nghỉ hè thì lại thấy bác cùng với bác Tùng, bác Âu Thanh Minh đi thể dục mỗi sáng tại bờ sông Hương. Cứ gặp tôi là bác lại hồ hởi hỏi chuyện bà con A Lưới. Còn nhớ bác nhỏ nhẹ: “Bác dạo này hơi mệt, ưng đi A Lưới lắm nhưng con cái bảo thôi. Khi nào lên lại A Lưới cho bác gửi lời thăm mọi người nhé. Nhớ nói anh Đời, chị Tư ở Đội Thông tin lưu động huyện A Lưới phải luôn có nhiều sáng tác mới về A Lưới, biên đạo nhiều điệu múa để phục vụ bà con”. Những lời chân tình của nhạc sĩ Minh Phương như được những cơn gió chuyển nhanh lên với A Lưới. Sau này bác đã đi xa, anh chị em chúng tôi ở A Lưới vẫn miệt mài với sự nghiệp văn hóa, giáo dục. Đội Thông tin A Lưới vẫn giữ mãi niềm tin vào bác vì bác là người luôn dõi theo những bước đi của Đội: “Mỗi năm, đội tổ chức bốn, năm chuyến đi (mỗi chuyến đi ít nhất là trên một tháng) về với các bản làng xa xôi hẻo lánh, mỗi điểm diễn hai, ba hôm.

Nhân dân các bản làng A Lưới xem đội thông tin lưu động là niềm vui, là mùa xuân đến với núi rừng. Đội Thông tin lưu động A Lưới đã có nhiều đóng góp cho tỉnh trong các cuộc liên hoan tiếng hát Sơn Ca ở Gia Lai - Kon Tum, liên hoan thông tin khu vực miền trung ở Phú Yên…


Nhạc sĩ Minh Phương là người viết nhiều về sự đổi mới của đất nước, đặc biệt là về rừng “hãy để cho những cánh rừng xanh tươi màu mỡ”. Bài hát “Chiều Trường Sơn”: “Chiều Trường Sơn, tôi đến thăm anh/ Tượng đài cao, tượng đài cao hùng vĩ trên đồi xanh/ Anh nằm đó chiều mây trời lộng gió/ Chim vẫn ca/ Suối vẫn hiền hòa/ Cây rừng ru anh yên giấc ngủ đời đời…”; được nhạc sĩ Trần Hữu Pháp nhận xét là “đã để lại cho người nghe niềm xúc động về người chiến sĩ đã ngã xuống vì quê hương”.

Hơn 30 giải thưởng của trung ương, địa phương, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam cùng nhiều huân chương, huy chương, kỷ niệm chương của Nhà nước và các bộ, ban, ngành là những ghi nhận xứng đáng về những đóng góp, cống hiến của nhạc sĩ Minh Phương vào sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật, văn nghệ quần chúng ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói chung và Bình Trị Thiên nói riêng.

T.N.K.P
(SDB19/12-15)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.