TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Thật vui mừng và xúc động khi cầm trên tay tập sách Rừng hát của cố nhạc sĩ Trương Minh Phương do gia đình tặng. Tuyển tập dày 1.328 trang, chia làm 4 phần, tập hợp những sáng tác, nghiên cứu văn học nghệ thuật trong cuộc đời của nhạc sĩ.
Phần 1: Giai điệu: Giới thiệu 128 ca khúc nhạc sĩ đã viết trong suốt 60 năm, từ năm 1951 đến cuối đời.
Phần 2: Bên cánh màn nhung: Giới thiệu 80 kịch bản sân khấu, gồm kịch nói, ca kịch, ca cảnh, kịch bản thông tin và tiểu phẩm, trong đó có nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi, nhiều vở kịch mang tầm tư tưởng lớn về truyền thống cách mạng cả trong chiến đấu cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phần 3: Muôn sắc: Giới thiệu 8 tác phẩm là những công trình nghiên cứu, sưu tầm, chỉnh lý về dân ca, dân nhạc, dân vũ, nhạc cụ dân tộc của các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bình Trị Thiên trước đây và Thừa Thiên Huế sau này.
Phần 4: Những điều cảm nhận: Tập hợp 12 bài viết của các tác giả là những nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu về các tác phẩm, công trình âm nhạc, văn học, sân khấu, nghiên cứu, sưu tầm của nhạc sĩ Minh Phương.
Tôi thực sự bồi hồi khi những kỉ niệm ập về trong tôi và khiến những điều, những kỉ niệm mà tôi ấp ủ bấy lâu, nay lại có dịp được viết và kể ra đây.
Tôi là người có duyên may khi được gặp nhạc sĩ Minh Phương tại A Lưới trong suốt thời gian gần 10 năm. Cái ngày ấy, đường lên A Lưới còn khó khăn, xe đò chỉ có 1 chuyến/ngày, sáng 7 giờ xuất bến ở Huế thì đến 16 giờ mới đến được trung tâm thị trấn A Lưới; trong những chuyến xe lên về ngày ấy đều có nhạc sĩ Minh Phương.
Nhạc sĩ Minh Phương lên A Lưới nhiều lần cũng vì nhiều việc khác nhau, có khi là đi sáng tác, có khi là đi dự các hội thi mà chính nhạc sĩ là thành viên của Ban giám khảo. Nhưng có lẽ kỷ niệm nhất là những lần nhạc sĩ lên A Lưới làm cố vấn chương trình cho Đội Thông tin lưu động huyện A Lưới. Nhạc sĩ là một vị khách quý, nói như người vùng cao: Đồng bào các dân tộc thiểu số ở A Lưới mỗi khi có khách quý đến nhà thì đãi cơm gạo quý Radư. Mỗi lần nhạc sĩ lên thì được bạn bè đồng nghiệp văn nghệ sĩ địa phương đón tiếp nồng hậu bằng gạo quý Radư. Những lúc ấy, tôi có nhiệm vụ đưa nhạc sĩ đi vào các thôn bản.
Nhạc sĩ Minh Phương rất thích đi thăm bà con ở thôn bản, nhất là ở vùng càng xa trung tâm huyện càng tốt, bởi vì bà con rất chân thật, mến khách. Nhạc sĩ kể: “Khi làm cuốn sách Dư âm tình rừng, mình đội ơn bà con nhiều lắm, nhớ mẹ Kăn Gương ở xã Hương Lâm kể cho nghe nhiều chuyện, được mẹ Kăn Hắt ở xã Hồng Thượng hát cho nhiều bản dân ca Cha chấp. Cứ mỗi lần lên A Lưới là lại nhớ đến những người mẹ Tà Ôi, Pa Cô ru con với điệu Ru akay nồng nàn, da diết”.
Thuở ấy tôi chưa có xe máy mà lại đi chiếc xe đạp phượng hoàng để đưa nhạc sĩ đi vào thôn A Hưa, xã Nhâm. Lúc đầu, tôi rất khó xử vì không biết nhạc sĩ có chịu đi xe đạp cùng mình không, nhưng rồi khi gặp nhau trao đổi kế hoạch đi cơ sở thì nhạc sĩ nói: “Phong à, mình cũng như Phong thôi, khách sáo làm gì, cứ đèo nhau trên một chiếc xe đạp cũng được, đi chậm thì có thời giờ nói chuyện nhiều hơn”. Nghe đến đó, tôi mừng lắm, vì được đưa một nhạc sĩ, một vị khách của huyện đi thăm bà con thôn bản bằng xe đạp thì oách còn gì bằng. Và chính lần đi đó tôi đã học được rất nhiều điều ở nhạc sĩ.
![]() |
Vào đến thôn A Hưa, xã Nhâm, khi đến thăm ngôi nhà Rông của thôn, nhìn thấy những bức phù điêu trang trí, những bức tượng gỗ, nhạc sĩ đã giải thích cho tôi nghe những kiểu thức trang trí hoa văn cũng như giá trị và chức năng của ngôi nhà sàn. Nhạc sĩ lanh lẹ, thoăn thoắt trông giống như một hướng dẫn viên thực thụ. Lúc đó có bác Hồ Viên Pưa là Chủ tịch UBND xã Nhâm, nhà bác Pưa ở ngay cạnh ngôi nhà Rông đó, khi nghe nhạc sĩ giới thiệu ngôi nhà Rông thì bác Pưa thán phục, khen tài của nhạc sĩ và mời qua nhà chơi.
Nhạc sĩ Minh Phương là người rất trăn trở về âm nhạc dân gian các dân tộc thiểu số, khi nhìn thấy những chiếc khèn bè, chiếc trống, chiếc tù và sừng trâu, đàn Ta lư, đàn A bel, nhạc sĩ đã hướng dẫn cho bà con cách bảo quản để chống mối mọt. Bác cũng căn dặn anh chị em của Đội thông tin lưu động cũng như các cán bộ của Phòng Văn hóa Thông tin A Lưới phải hướng dẫn, truyền dạy lại cho bà con trong vùng về cách trình diễn âm nhạc sao cho có bài bản, thế hệ trẻ phải biết làm nhạc cụ. Huyện cũng cần có một phòng trưng bày nhạc cụ để mỗi khi đi lưu diễn khỏi phải mượn của bà con.
Một điều đáng nể ở nhạc sĩ Minh Phương là phong cách làm việc, theo là thấy gì, nghe gì thì ghi chép nấy. Cho nên, trong hành trang mỗi khi lên A Lưới bác thường mang theo máy ảnh, sổ ghi chép, vài ba cây viết. Bác vừa trao đổi, hỏi chuyện thân mật vừa tốc kí nhanh. Bác nói “Sau một ngày đi điền dã về thì nên tranh thủ thời gian mà xử lí tư liệu ngay kẻo không thì sẽ quên hoặc mất thì tiếc, khó mà ghi lại được. Nhưng mà bác rất tiếc là các nghệ nhân cao tuổi lần lượt ra đi, để lại một lổ hổng lớn về văn hóa văn nghệ dân gian không có gì bù đắp nổi”.
Tôi may mắn được nhạc sĩ Minh Phương dìu dắt từng bước một trên con đường sưu tầm nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số ở A Lưới. Chính bác bày cho tôi cách điền dã, sưu tầm các hiện vật dân tộc học. Tôi còn nhớ mãi lời dặn của bác: “Khi đi sưu tầm hiện vật chúng ta nên phân ra các chủ đề cho dễ với công việc. Bác thấy ở A Lưới đồng bào sử dụng hiện vật vào các chủ đề sau: nhạc cụ, đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, bộ dụng cụ bẫy thú, bộ dụng cụ đánh bắt cá; trang phục, trang sức; tượng gỗ. Cho nên mình cần sưu tầm, gìn giữ lại các bộ váy, áo dzèng, các nhạc cụ, các cối chày, chum, gùi… để sau này con cháu có thấy đó mà nhớ về văn hóa truyền thống cha ông”.
Thật đúng như vậy, sau mỗi năm tôi thường hay về Huế và ghé đến nhà của bác, như vừa để báo cáo tình hình công việc của mình mà bác đã truyền dạy, cũng vừa hỏi thăm sức khỏe và công việc của bác. Thật vui khi nghe tin bác có những đầu sách mới xuất bản. Có lần bác gửi lên tặng cho học sinh A Lưới sách Gió thoảng hương bay, đó là món quà mà ai ai cũng vui mừng.
Sau đó, cứ mỗi khi nghỉ hè thì lại thấy bác cùng với bác Tùng, bác Âu Thanh Minh đi thể dục mỗi sáng tại bờ sông Hương. Cứ gặp tôi là bác lại hồ hởi hỏi chuyện bà con A Lưới. Còn nhớ bác nhỏ nhẹ: “Bác dạo này hơi mệt, ưng đi A Lưới lắm nhưng con cái bảo thôi. Khi nào lên lại A Lưới cho bác gửi lời thăm mọi người nhé. Nhớ nói anh Đời, chị Tư ở Đội Thông tin lưu động huyện A Lưới phải luôn có nhiều sáng tác mới về A Lưới, biên đạo nhiều điệu múa để phục vụ bà con”. Những lời chân tình của nhạc sĩ Minh Phương như được những cơn gió chuyển nhanh lên với A Lưới. Sau này bác đã đi xa, anh chị em chúng tôi ở A Lưới vẫn miệt mài với sự nghiệp văn hóa, giáo dục. Đội Thông tin A Lưới vẫn giữ mãi niềm tin vào bác vì bác là người luôn dõi theo những bước đi của Đội: “Mỗi năm, đội tổ chức bốn, năm chuyến đi (mỗi chuyến đi ít nhất là trên một tháng) về với các bản làng xa xôi hẻo lánh, mỗi điểm diễn hai, ba hôm.
Nhân dân các bản làng A Lưới xem đội thông tin lưu động là niềm vui, là mùa xuân đến với núi rừng. Đội Thông tin lưu động A Lưới đã có nhiều đóng góp cho tỉnh trong các cuộc liên hoan tiếng hát Sơn Ca ở Gia Lai - Kon Tum, liên hoan thông tin khu vực miền trung ở Phú Yên…
Nhạc sĩ Minh Phương là người viết nhiều về sự đổi mới của đất nước, đặc biệt là về rừng “hãy để cho những cánh rừng xanh tươi màu mỡ”. Bài hát “Chiều Trường Sơn”: “Chiều Trường Sơn, tôi đến thăm anh/ Tượng đài cao, tượng đài cao hùng vĩ trên đồi xanh/ Anh nằm đó chiều mây trời lộng gió/ Chim vẫn ca/ Suối vẫn hiền hòa/ Cây rừng ru anh yên giấc ngủ đời đời…”; được nhạc sĩ Trần Hữu Pháp nhận xét là “đã để lại cho người nghe niềm xúc động về người chiến sĩ đã ngã xuống vì quê hương”.
Hơn 30 giải thưởng của trung ương, địa phương, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam cùng nhiều huân chương, huy chương, kỷ niệm chương của Nhà nước và các bộ, ban, ngành là những ghi nhận xứng đáng về những đóng góp, cống hiến của nhạc sĩ Minh Phương vào sự nghiệp phát triển văn học nghệ thuật, văn nghệ quần chúng ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói chung và Bình Trị Thiên nói riêng.
T.N.K.P
(SDB19/12-15)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).