Ảnh: truongxua.vn
Bài thơ được tác giả viết nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2008. Lúc đó, chúng tôi vẫn gọi là “thơ tình” ngày Nhà giáo. Các tuyển tập thơ tình thường có tên gọi rất trẻ trung, gợi cảm: Thơ tình con trai, con gái, Thơ tình tuổi mới lớn, hay là chỉ hai chữ Thơ tình... Chưa có ai gọi Thơ tình 20 tháng 11 cả. Vậy mà bài thơ Mỗi ngày được gọi là Thơ tình, đủ biết tác giả có cái nhìn lãng mạn, đắm say về nghề dạy học... 2. Tiếng trống tựu trường bao giờ cũng chứa đựng cả một niềm “hoan lạc” với tuổi học trò, vì trong đó có cả ước mơ, có cả hò hẹn, có cả những trò chơi tinh nghịch “nhất quỷ, nhì ma...”, có cả hy vọng, có cả đắm say... Nghĩa là có đủ các cung bậc tình cảm, bởi vậy người được vinh dự cầm dùi trống đánh những tiếng trống đầu tiên báo hiệu ngày tựu trường trong cái sắc vàng của lá, sắc xanh da trời và thoang thoảng gió heo may thì mới cảm nhận hết âm vang tiếng trống trong lòng con trẻ khi bước chân sáo vào cổng trường rộng mở. Nhớ tiếng trống tựu trường, chợt nhớ đến bài thơ tình “Mỗi ngày”. Thơ tình ngay từ trong ý tứ, câu chữ, thể thơ tự do, ngắt nghỉ giữa các dòng tự do, câu chữ tự do, thoải mái như cái tâm người viết bài thơ này vậy. Đại từ “em” đã lãng mạn hóa tứ thơ ngay từ câu mở đầu “Mỗi ngày/ đến với em/ anh vẫn tươi như thời trai trẻ”. Gọi lớp học, trường học, nơi người thầy tự tin bước lên bục giảng là “em”, thì không chỉ lãng mạn hóa nghề dạy học, mà còn làm mới thêm cách nghĩ về nghề dạy học, làm đẹp thêm tâm hồn người thầy. Câu thơ khẳng định một niềm tin bất di bất dịch về những gì mới mẻ, tinh nguyên của “cái tâm” trong sáng của người thầy “anh vẫn tươi như thời trai trẻ”. “Vẫn mái trường xưa mỗi sáng, mỗi chiều/ Anh vẫn đi trên con đường thân thuộc/ Bóng cây, sân trường đã đi vào ký ức/ Lớp học, giảng đường quá đỗi thân quen”, vẫn mái trường xưa, vẫn thân quen, vẫn ký ức... nghĩa là tất cả vẫn quá đỗi thân quen, nhưng “anh vẫn tươi như thời trai trẻ” vì anh không bào mòn niềm tin nghề nghiệp theo năm tháng thời gian, mà anh làm mới nó trong mỗi sớm, mỗi chiều... Anh thu nhận những đổi thay về phương pháp, những cách tân về phương pháp, những mới mẻ về kiến thức để “mái trường xưa” không làm anh nhàm chán, để bục giảng kia không làm anh già cỗi và để lớp lớp học sinh thân yêu không thấy anh là “dĩ vãng”, mà “Bởi tri thức là vô tận/ Mỗi ngày thêm bao thứ sẻ chia...” Cảm xúc trữ tình nghĩ xa hơn về những thế hệ học sinh đã tung cánh bay xa đến mọi miền đất nước “Mỗi ngày/ đến ngôi trường thân quen/ dù không có em/ khi đã xa trường tung cánh” thì “Anh lại thêm niềm vui bất tận”, vì “Lại những ngày/ anh tiếp tục sẻ chia...”, đọc những câu thơ liên tiếp nhau có cảm giác như không chỉ là tâm trạng, là nỗi lòng được viết ra bằng chính “cái tâm” với nghề mà còn gợi lên biết bao hình ảnh thân thương, hình ảnh người thầy “lặng lẽ” như người đưa đò sớm hôm nhọc nhằn, không một tiếng thở than. Hình ảnh người thầy rưng rưng tiễn đưa những thế hệ học trò thân yêu gần gũi miệt mài năm tháng trên ghế giảng đường... Hình ảnh người thầy hi sinh thầm lặng nhọc nhằn bên trang giáo án, để bước chân đến trường lúc nào cũng “tươi mới, rạng ngời”... 3. Và rồi, những hi sinh thầm lặng, những ước mơ với nghề, những khát khao kì vọng về học sinh thân yêu được kết lại bằng những câu thơ hết sức giản dị “Mỗi ngày/ Với anh/ Người thầy vô danh/ Vẫn mãi tươi xanh/ Niềm mong đợi...”. Chỉ là “người thầy vô danh” mà chứa đựng biết bao nội lực, biết bao sức mạnh, biết bao niềm tin, biết bao niềm hy vọng với sự nghiệp trồng người, bởi người thầy vô danh từng quan niệm “tấm bằng” của mỗi người phải do cuộc đời ghi nhận, và đó chính là “Tấm bằng - bằng - của - chính - ta”. Để có được tấm bằng của chính ta, người thầy đã “lãng mạn” nghề dạy học ngay từ cái nhìn về “em” - giảng đường, mái trường, học sinh... Em hãy tươi mới, anh cũng tươi mới trong ngày tựu trường để tiếng trống tựu trường âm vang, âm vang. HOÀNG NGỌC QUÝ Mỗi ngày Mỗi ngày đến với em anh vẫn tươi như thời trai trẻ Mỗi ngày đối với anh khi ồn ào khi lặng lẽ Nhưng đời luôn mạnh mẽ tình yêu Vẫn mái trường xưa mỗi sáng, mỗi chiều Anh vẫn đi trên con đường thân thuộc Bóng cây, sân trường đã đi vào ký ức Lớp học, giảng đường quá đỗi thân quen Mỗi ngày đến với em không có y nguyên Và không bao giờ nhàm chán Bởi tri thức là vô tận Mỗi ngày thêm bao thứ sẻ chia... Mỗi ngày đến ngôi trường thân quen dù không có em khi đã xa trường tung cánh Anh lại thêm niềm vui bất tận Lại những ngày anh tiếp tục sẻ chia... Mỗi ngày Với anh Người thầy vô danh Vẫn mãi tươi xanh Niềm mong đợi... (264/2-11) |
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.