Tươi xanh niềm mong đợi...

14:52 04/03/2011
HOÀNG THỊ THU THỦY1. “Ngày khai trường áo lụa gió thu bay” không chỉ có trong “Mối tình đầu” của nhà thơ Đỗ Trung Quân, mà niềm háo hức, tươi xanh, mong đợi có cả trong bài thơ “Mỗi ngày” của thầy giáo Hoàng Ngọc Quý.

Ảnh: truongxua.vn

Bài thơ được tác giả viết nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11/2008. Lúc đó, chúng tôi vẫn gọi là “thơ tình” ngày Nhà giáo. Các tuyển tập thơ tình thường có tên gọi rất trẻ trung, gợi cảm: Thơ tình con trai, con gái, Thơ tình tuổi mới lớn, hay là chỉ hai chữ Thơ tình... Chưa có ai gọi Thơ tình 20 tháng 11 cả. Vậy mà bài thơ Mỗi ngày được gọi là Thơ tình, đủ biết tác giả có cái nhìn lãng mạn, đắm say về nghề dạy học...

2. Tiếng trống tựu trường bao giờ cũng chứa đựng cả một niềm “hoan lạc” với tuổi học trò, vì trong đó có cả ước mơ, có cả hò hẹn, có cả những trò chơi tinh nghịch “nhất quỷ, nhì ma...”, có cả hy vọng, có cả đắm say... Nghĩa là có đủ các cung bậc tình cảm, bởi vậy người được vinh dự cầm dùi trống đánh những tiếng trống đầu tiên báo hiệu ngày tựu trường trong cái sắc vàng của lá, sắc xanh da trời và thoang thoảng gió heo may thì mới cảm nhận hết âm vang tiếng trống trong lòng con trẻ khi bước chân sáo vào cổng trường rộng mở.

Nhớ tiếng trống tựu trường, chợt nhớ đến bài thơ tình “Mỗi ngày”. Thơ tình ngay từ trong ý tứ, câu chữ, thể thơ tự do, ngắt nghỉ giữa các dòng tự do, câu chữ tự do, thoải mái như cái tâm người viết bài thơ này vậy.

Đại từ “em” đã lãng mạn hóa tứ thơ ngay từ câu mở đầu “Mỗi ngày/ đến với em/ anh vẫn tươi như thời trai trẻ”. Gọi lớp học, trường học, nơi người thầy tự tin bước lên bục giảng là “em”, thì không chỉ lãng mạn hóa nghề dạy học, mà còn làm mới thêm cách nghĩ về nghề dạy học, làm đẹp thêm tâm hồn người thầy. Câu thơ khẳng định một niềm tin bất di bất dịch về những gì mới mẻ, tinh nguyên của “cái tâm” trong sáng của người thầy “anh vẫn tươi như thời trai trẻ”.

“Vẫn mái trường xưa mỗi sáng, mỗi chiều/ Anh vẫn đi trên con đường thân thuộc/ Bóng cây, sân trường đã đi vào ký ức/ Lớp học, giảng đường quá đỗi thân quen”, vẫn mái trường xưa, vẫn thân quen,
vẫn ký ức... nghĩa là tất cả vẫn quá đỗi thân quen, nhưng “anh vẫn tươi như thời trai trẻ” vì anh không bào mòn niềm tin nghề nghiệp theo năm tháng thời gian, mà anh làm mới nó trong mỗi sớm, mỗi chiều... Anh thu nhận những đổi thay về phương pháp, những cách tân về phương pháp, những mới mẻ về kiến thức để “mái trường xưa” không làm anh nhàm chán, để bục giảng kia không làm anh già cỗi và để lớp lớp học sinh thân yêu không thấy anh là “dĩ vãng”, mà “Bởi tri thức là vô tận/ Mỗi ngày thêm bao thứ sẻ chia...”

Cảm xúc trữ tình nghĩ xa hơn về những thế hệ học sinh đã tung cánh bay xa đến mọi miền đất nước “Mỗi ngày/ đến ngôi trường thân quen/ dù không có em/ khi đã xa trường tung cánh” thì “Anh lại thêm niềm vui bất tận”, vì “Lại những ngày/ anh tiếp tục sẻ chia...”, đọc những câu thơ liên tiếp nhau có cảm giác như không chỉ là tâm trạng, là nỗi lòng được viết ra bằng chính “cái tâm” với nghề mà còn gợi lên biết bao hình ảnh thân thương, hình ảnh người thầy “lặng lẽ” như người đưa đò sớm hôm nhọc nhằn, không một tiếng thở than. Hình ảnh người thầy rưng rưng tiễn đưa những thế hệ học trò thân yêu gần gũi miệt mài năm tháng trên ghế giảng đường... Hình ảnh người thầy hi sinh thầm lặng nhọc nhằn bên trang giáo án, để bước chân đến trường lúc nào cũng “tươi mới, rạng ngời”...

3. Và rồi, những hi sinh thầm lặng, những ước mơ với nghề, những khát khao kì vọng về học sinh thân yêu được kết lại bằng những câu thơ hết sức giản dị “Mỗi ngày/ Với anh/ Người thầy vô danh/ Vẫn mãi tươi xanh/ Niềm mong đợi...”. Chỉ là “người thầy vô danh” mà chứa đựng biết bao nội lực, biết bao sức mạnh, biết bao niềm tin, biết bao niềm hy vọng với sự nghiệp trồng người, bởi người thầy vô danh từng quan niệm “tấm bằng” của mỗi người phải do cuộc đời ghi nhận, và đó chính là “Tấm bằng - bằng - của - chính - ta”. Để có được tấm bằng của chính ta, người thầy đã “lãng mạn” nghề dạy học ngay từ cái nhìn về “em” - giảng đường, mái trường, học sinh... Em hãy tươi mới, anh cũng tươi mới trong ngày tựu trường để tiếng trống tựu trường âm vang, âm vang.



HOÀNG NGỌC QUÝ


Mỗi ngày


Mỗi ngày
đến với em
anh vẫn tươi như thời trai trẻ

Mỗi ngày
đối với anh
khi ồn ào
khi lặng lẽ
Nhưng đời luôn mạnh mẽ tình yêu

Vẫn mái trường xưa mỗi sáng, mỗi chiều
Anh vẫn đi trên con đường thân thuộc
Bóng cây, sân trường đã đi vào ký ức
Lớp học, giảng đường quá đỗi thân quen

Mỗi ngày
đến với em
không có y nguyên
Và không bao giờ nhàm chán
Bởi tri thức là vô tận
Mỗi ngày thêm bao thứ sẻ chia...

Mỗi ngày
đến ngôi trường thân quen
dù không có em
khi đã xa trường tung cánh
Anh lại thêm niềm vui bất tận

Lại những ngày
anh tiếp tục sẻ chia...

Mỗi ngày
Với anh
Người thầy vô danh
Vẫn mãi tươi xanh
                                   
Niềm mong đợi...


(264/2-11)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH KHÔICuối tháng bảy vừa qua, giáo sư ngôn ngữ và văn chương Wayne S.Karlin và nữ phóng viên Valerie, công tác ở một Đài phát thanh thuộc bang Maryland, Mỹ đã đến Huế tìm thăm nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, để chuyển cho chị bản hợp đồng in ấn và phát hành tập thơ Green Rice (Cốm Non) do cơ quan xuất bản gửi từ Mỹ sang.

  • FRED MARCHANTCó những vết thương chẳng thể nào lành lặn và có những nỗi đau chẳng bao giờ mất đi. Kinh nghiệm nhân loại khuyên ta không nên “chấp nhận” hay “bỏ đi” hay “vượt lên” chúng. Với một con người mà tâm hồn thương tổn vì đã làm cho người khác khổ đau hay chứng kiến nhiều nỗi đau khổ thì những câu nói như thế hoàn toàn vô nghĩa.

  • BÍCH THU          (Đọc thơ Dòng sông mùa hạ của Hoàng Kim Dung. NXB Hội Nhà văn, 2004)Nhìn vào tác phẩm đã xuất bản của Hoàng Kim Dung, tôi nhận thấy ở người phụ nữ này có sự đan xen giữa công việc nghiên cứu khoa học với sáng tạo thi ca. Ngoài bốn tập thơ và bốn cuốn sách nghiên cứu về nghệ thuật đã in, với tập thơ thứ năm có tựa đề Dòng sông mùa hạ mới ra mắt bạn đọc, đã làm cán cân nghiêng về phía thơ ca.

  • ĐÔNG HÀVăn hoá và văn học bao giờ cũng có một mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có thể thấy rằng văn học là một bộ phận của văn hoá, nó chịu sự ảnh hưởng của văn hoá. Khi soi vào một thời kì văn học, người đọc có thể thấy được những khía cạnh về phương diện đời sống văn hoá tinh thần của một thời đại, một giai đoạn của xã hội loài người.

  • HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.

  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.