NGUYỄN KHẮC PHÊ
Ghi chép
Từ mùa xuân năm ấy đến nay vừa tròn 30 năm, chẳng phải vì con số tròn ba thập kỷ mà tôi nhắc lại chuyện cũ. Chỉ vì từ mùa xuân năm ấy, cuộc đời tôi có một bước ngoặt mới và nhờ có mùa xuân năm ấy, cuốn sách đầu tay của tôi đã ra đời.
Nv Nguyễn Khắc Phê thời trẻ và tập ký sự "Vì sự sống con đường" NXB Thanh Niên 1968 - Ảnh: nhân vật cung cấp
Đó là mùa xuân năm 1967. Từ Quảng Bình, tôi lên đường ra Hà Nội đúng vào ngày 29 Tết. Tôi được cơ quan cho ra chữa bệnh, kết hợp hoàn thành tập ký sự viết về những chiến sĩ giữ đường 12A dưới chân đèo Mụ Dạ. Trong hai năm 1965 - 1966, đường 12A là đầu mối quan trọng của đường Hồ Chí Minh, một trong những nơi bị không quân Mỹ đánh phá ác liệt nhất miền Bắc và cũng là nơi tụ hội các anh hùng. Là một trong những cán bộ chỉ đạo công tác bảo đảm giao thông ở đây, những chiến công và cả những hy sinh gian khổ của đồng đội đã thôi thúc tôi cầm bút. Trân trọng những đóng góp của đội ngũ nhà văn, nhà báo, đồng chí Lại Văn Ly, người lãnh đạo ngành giao thông vận tải Quảng Bình thời ấy, chỉ sau một lần gặp tôi tại Đại hội chiến sĩ "Hai giỏi" (tôi dự Đại hội này với tư cách là một trong năm chiến sĩ xuất sắc của công trường 12A) và nghe tôi đọc bài ký viết về những chiến công đầu trên đường 12A, liền quyết định điều tôi từ công trường về phụ trách công tác tuyên truyền thi đua của ngành. Sau gần 10 năm là cán bộ kỹ thuật, tôi chuyển ngạch thành anh cán bộ "chính trị". Từ đó, công việc thường ngày của tôi là tìm đến các điển hình tiên tiến, các đơn vị vừa lập chiến công, viết thành tích động viên cổ vũ họ. Những năm tháng này đã giúp tôi thêm từng trải, thêm vốn sống, gợi cảm hứng sáng tạo các tiểu thuyết Đường qua làng Hạ, Đường giáp mặt trận, Chỗ đứng người kỹ sư, Miền xa kêu gọi... Nhưng đó là công việc của những năm tháng về sau. Còn những ngày đầu năm 1967, được đêm nào rỗi, tôi lấy chăn, ni lông thưng lại thành một cái "buồng" ở góc nhà, thắp đèn ngồi viết những trang đầu tập ký sự đường 12A. "Buồng" đã thưng che kín lắm, vậy mà thỉnh thoảng lại nghe tiếng kêu: "Muốn chết à? Tắt đèn đi!” Lại phải kiếm thêm "vật liệu" bịt các khe hở. Căn "buồng" càng nồng khét mùi dầu cháy. Dù vậy tôi đã kịp viết xong câu chuyện về anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế và đem đọc cho nhà thơ Xuân Hoàng cùng ba nữ anh hùng (Nguyễn Thị Kim Huế, Trần Thị Lý, Nguyễn Thị Khíu) nghe...
Cho đến ngày 29 Tết, tôi được ra Hà Nội. Tôi biết đấy là "đặc ân" dành cho nhà văn nghiệp dư vì những ngày Tết, ngành giao thông vận tải đang phải dốc toàn lực cho chiến dịch trong dịp ngừng bắn. Cùng đi với tôi còn có mấy anh em được cử đi học nước ngoài. Cuộc chiến đấu đang rất khốc liệt, nhưng chúng ta nắm chắc phần thắng trong tay, đã nghĩ đến kế hoạch xây dựng lại đất nước từ ngày ấy.
Lâu lắm rồi, tôi mới được ngồi ô tô chạy giữa ban ngày. Chúng tôi "ăn Tết" bằng niềm vui được thấy những đoàn xe ngược chiều phủ kín vải bạt, nối đuôi nhau đi về phía Nam trên con đường vừa được mang "áo mới" - những hàng cọc tiêu trắng tinh chưa kịp nhuốm bụi đường. Trời nhiều mây mù, nhưng từ đường số một vẫn thấy rõ từng cặp máy bay C.130 lượn về phía bờ biển thăm dò. Đường xuống bến phà sông Gianh nham nhở hố bom. Phản lực trinh sát của Mỹ thỉnh thoảng lại nhào tới nhòm ngó. Pháo cao xạ và cả súng trường nữa lập tức lên tiếng đuổi chúng đi.
Chiếc xe đưa chúng tôi tới bến phà Bến Thủy vừa đúng giờ giao thừa. Giữa sông Lam lộng gió, chúng tôi xúm lại nghe tiếng nói Bác Hồ chúc Tết đầu năm. Đồng bào cả nước đã quen chờ đón lắng nghe tiếng nói Bác Hồ mỗi khi năm mới đến. Nhưng lần này, tôi lắng nghe tiếng Bác với niềm xúc động sâu sắc, không chỉ vì tôi đang ở rất gần quê Bác, mà vì hơn nửa năm qua, những chiến sĩ giữ đường 12A đã được Bác quan tâm đặc biệt. Giữa mênh mông sóng gió sông Lam, giọng Bác đọc bài thơ chúc năm mới nghe càng ấm cúng:
Xuân về xin có một bài ca
Gửi chúc đồng bào cả nước ta.
Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.
Nghe tiếng Bác, tôi lại tưởng như thấy Bác đang bắt tay đồng chí bí thư Đảng ủy công trường, tin cậy giao trọng trách giữ con đường huyết mạch của Tổ quốc cho chúng tôi tại Đại hội bảo đảm giao thông toàn miền Bắc hồi tháng 3 năm 1966; và ngày 12 tháng 4 năm 1966, khi giặc Mỹ lần đầu dùng máy bay B.52 đánh đèo Mụ Dạ, Bác Hồ đã lập tức đánh điện hỏi thăm tình hình công trường. Tôi tưởng như thấy Bác mỉm cười, thở ra nhẹ nhõm khi biết tin những chiến sĩ giữ đường không có ai hy sinh và chỉ qua nửa đêm, con đường ra mặt trận lại thông suốt.
Đêm giao thừa năm ấy, tôi có dịp ghé lại căn nhà nhỏ phía sau nhà thờ cầu Rầm ở thành phố Vinh. Mẹ và em gái tôi đã đi sơ tán. Cửa khóa, cây cối trong vườn vẫn nguyên vẹn. Có lẽ vì trời rét dài ngày, nên cây đào bên ngõ vẫn chưa ra hoa. Một chút bùi ngùi, thương nhớ níu bước chân tôi giây lát. Chỉ vậy thôi. Tôi sang nhà hàng xóm ngủ nhờ, vặn đài nghe cho tới 3 giờ sáng.
Tôi ra đến Hà Nội thì đã sang ngày mồng 2 Tết. Hà Nội vẫn khá đông vui, tuy số người sơ tán cũng nhiều, sống ở thủ đô nhưng tâm trí tôi luôn hướng về đồng đội ở Trường Sơn. Ngày nào, đài cũng loan tin máy bay Mỹ ném bom đường 12A và từng ngày, hình ảnh con đường cùng những đồng đội của tôi hiện ra ngày càng rõ trên những trang bản thảo. Đó là những cô gái gác đèn báo động - những "Đan-cô" ở Trường Sơn; những chiến sĩ phá bom nổ chậm, những đội viên thanh niên xung phong đại đội 759 anh hùng và anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế; chiến công thông đường sau trận B.52 và những chiến sĩ cảm tử tiến lên trận địa bom "tọa độ" ở ki-lô-mét 37...
Có một câu chuyện cảm động, ngày ấy tôi chưa đưa vào tập ký sự. Chính vào lúc tôi rơi nước mắt khi viết những dòng nhắc đến gần chục chiến sĩ thanh niên xung phong tại đại đội 759 bị vùi trên trận địa đồi 37 thì đồng chí Lại Văn Ly ra Hà Nội, đến thăm nghệ sĩ Bích Lâm. Ông vừa đi dự hội diễn sân khấu các nước châu Mỹ La tinh ở Cu Ba về. Cuối năm 1966, ông dẫn đầu một đoàn nghệ sĩ vào thăm công trường 12A và đã mang về Hà Nội nắm đất từng thấm máu các chiến sĩ trên "đồi 37". Nửa nắm đất ấy được ông mang sang Cu Ba và khi người nghệ sĩ được tặng giải thưởng cao nhất - một con gà bằng vàng, đem tặng lại vật quý giá ấy cho đoàn Việt Nam, ông đã lấy nửa nắm đất "đồi 37" tặng người bạn quốc tế. Nâng tặng phẩm của đoàn Việt Nam, người bạn quốc tế ở nơi xa ấy đã xúc động nói đại ý: đây là phần thưởng quý vô giá đối với ông... Câu chuyện này càng thôi thúc tôi hoàn thành tập ký sự và có lẽ nó cũng tác động đến đồng chí Lại Văn Ly, khiến ông "linh động" cho tôi ở lại Hà Nội thêm một tháng nữa. Cũng phải nói thêm là nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh và nhà viết kịch Học Phi đã nhiệt tình nói "vun vào" với đồng chí Ly tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tập sách.
Ngày ấy, trong làng văn, tôi còn là một "tiểu tốt vô danh", mặc dù mấy năm trước đã có một vài truyện đăng báo. Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh biết tôi chẳng qua vì chị tôi là bạn với vợ ông - nhà văn Nguyễn Thị Cẩm Thạnh, hồi còn học trường Đồng Khánh (Huế). Còn với nhà viết kịch Học Phi thì chỉ vì ông cảm phục các chiến sĩ giữ đường 12A và ông cũng đã dựng một vở kịch dựa trên cuộc chiến đấu ở "đồi 37". Cũng vì hai vị không quen với thể ký và lúc đó, tập ký sự "Họ sống và chiến đấu" viết về các chiến sĩ giữ đảo Cồn Cỏ đang được dư luận chú ý, nên tôi đã may mắn được giới thiệu với nhà văn Nguyễn Khải, tuy chẳng biết tôi là "thằng cha" nào, nhưng trân trọng các chiến sĩ giữ đường Trường Sơn, ông đã chịu khó bỏ mấy buổi chiều nghe tôi đọc bản thảo, rồi vui vẻ giới thiệu nó với Nhà xuất bản Thanh Niên và bảo tôi đem mấy chương sang chỗ nhà văn Nguyễn Thành Long để đăng báo "Văn Nghệ".
Đầu năm 1968, tập ký sự "Vì sự sống con đường" được xuất bản. Bây giờ, mỗi lúc có dịp cầm đến tập sách đầu tay này, tôi lại nhớ về những đồng đội cũ và các nhà văn đàn anh đã hết lòng cổ vũ tôi trong bước đầu cầm bút. Và chợt nghĩ: nếu như không có chuyến đi mùa xuân năm ấy thì cuộc đời tôi có thể đã khác lắm. Giữa cuộc chiến ác liệt, bao điều bất ngờ có thể xảy ra. Từ mùa xuân năm ấy, tròn 30 năm đã qua...
N.K.P
(TCSH96/02-1997)
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)
MAI AN NGUYỄN ANH TUẤN
PHI TÂN
Làng Đại Lộc quê tôi cách biển không xa, nhưng người làng tôi không một ai biết đi biển đánh cá. Nghề đi biển là của những người đàn ông làng biển.
LÊ QUỐC HÁN
Huy Cận (31/5/1919 - 19/2/2005) là một trong những nhà thơ xuất sắc trong phong trào Thơ Mới (1939 - 1945). Nhiều nhà phê bình xếp ông cùng với Xuân Diệu, Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử vào hàng “tứ bất tử” trong thi ca Việt Nam của thời kỳ này.
BÙI KIM CHI
Tôi rời trường xưa, Đại học Sư phạm Huế chạm ngưỡng 50 năm. Bàng hoàng. Xao xuyến. Thuở vàng son của những tháng năm cũ vẫn lặng lẽ theo tôi, giao cảm tuyệt vời.
NGUYỄN XUÂN HOA
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Sáu chục năm trước, tôi chỉ là người hoạt động văn nghệ “tay trái”, vì “tay phải” còn lo làm công ăn lương. Sau khi rời ngành giao thông 1974 cho đến lúc về hưu năm 1999, thì làm văn nghệ cả hai tay!
DƯƠNG PHƯỚC THU
Theo báo Quyết Chiến, Cơ quan Thành bộ Việt Minh Thuận Hóa, về sau là của Việt Minh Nguyễn Tri Phương (bí danh của tỉnh Thừa Thiên), do nhà báo Vĩnh Mai (bí danh và cũng là bút danh của Nguyễn Hoàng) làm chủ bút; các nhà báo Nguyễn Đức Phiên, Vĩnh Hòa, Nguyễn Cửu Kiếm kế nhau làm quản lý và trị sự.
TRẦN NGUYÊN HÀO
Bác Hồ là người khai sinh ra nền báo chí cách mạng Việt Nam, là người sáng lập và linh hồn của nhiều tờ báo vô sản đầu tiên trong lịch sử báo chí ở nước ta và trên thế giới.
Kỷ Niệm 130 Năm Ngày Sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 - 19/5/2020)
VÕ VÂN ĐÌNH
PHẠM XUÂN PHỤNG
Về quê mẹ là về quê nội của mạ mình, tức là làng Tân Xuân Lai thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Còn “Quê Mẹ” là nhan đề một bài thơ của Tố Hữu viết về quê hương mình (cả quê nội lẫn quê ngoại), mà địa danh đại diện trong bài là Huế: “Huế ơi! Quê mẹ của ta ơi!”
Kỷ niệm 45 năm ngày thống nhất Đất nước (30/4/1975 - 30/4/2020)
PHONG LÊ
ĐÔNG HÀ
Người ta mỗi ngày thường hay nhìn tới để đi, nhưng cũng nhiều lúc, chọn cho mình một góc riêng tư, lại thường nhớ về những nỗi nhớ.
XUÂN CỬU
Kỷ niệm 45 năm ngày giải phóng Thừa Thiên Huế
BÙI HIỂN
Giữa năm 1949, lúc ấy tôi đang là ủy viên kiểm tra sở thông tin tuyên truyền liên khu IV, ông Hải Triều gợi ý tôi nên đi công tác một chuyến vào vùng tạm chiếm Bình Trị Thiên.
LÊ QUANG THÁI
Nhà thơ Nguyễn Khoa Vy (1881-1968) ở làng An Cựu, phủ Thừa Thiên, bút hiệu Thảo Am, đã sáng tác bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú theo hạn mỗi câu có tên một con thú.
ĐỖ QUÝ DÂN
Có lẽ tất cả những ai lớn lên ở Việt Nam đều biết đến nước mắm. Và đây chỉ là một câu chuyện. Một câu chuyện có chút liên quan đến nước mắm. Câu chuyện này cũng liên quan đến một người đàn bà được hoặc bị người ta gán cho cái tên Nước Mắm, hoặc Mắm, nếu người ta lười, chỉ muốn dùng một chữ để cho tiện gọi tên.
HỒ NGỌC DIỆP
Rất nhiều nhà viết sử, làm văn ao ước một lần được Bác Hồ tiết lộ một chút đời tư, nhưng may mắn đó chỉ thuộc về một người, đó là cố Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới, nhà nghiên cứu, nhà báo, nhà văn Sơn Tùng.
CHÍ QUANG
Tết Nguyên đán là ngày lễ hội lớn nhất trong năm của toàn dân tộc. Những nghi lễ, tập tục ngày Tết biểu hiện đậm nét văn hóa Việt Nam, chứa đựng tổng thể văn hóa tâm linh, văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa nghệ thuật trong đời sống.
PHẠM THỊ CÚC
Chú tên là Đô, người làng Thanh Thủy, nhưng không phải làng Thanh Thủy Chánh có Cầu Ngói, mà là Thanh Thủy Thượng, bây giờ gọi là Thủy Dương, cùng quê với nhà thơ Phùng Quán. Chú không phải là nhà thơ nên ngất ngưỡng kiểu khác, đặc biệt hơn.