Từ cây thanh trà đến những chiếc thuyền vỏ bòng

08:51 21/09/2011
MAI VĂN HOAN (Trại sáng tác văn học Hương Vân)

Nhà thơ Mai Văn Hoan - Ảnh: TL

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Đoàn nhà văn Huế tham gia Trại sáng tác Hương Vân được bố trí ăn nghỉ tại nhà chị Hồ Diệu Hương ở thôn Lại Bằng. Chị niềm nở đón chúng tôi bằng nụ cười tươi rói. Rót nước xong, chị Hương đi một vòng quanh khu vườn xinh xắn, chọn hái mấy quả thanh trà mời chúng tôi. Nhà chị có đến mấy chục cây thanh trà, cây nào cũng trĩu quả. Chị thành thật:

- Bây chừ chưa đến vụ, nên thanh trà chưa thật ngon, mong các anh chị thông cảm.

Tôi vừa thưởng thức vài múi thanh trà ngọt thanh vừa tò mò hỏi chị về sự tích cây thanh trà. Chị Hương cũng không biết đích xác thanh trà ở Huế có từ lúc nào. Chỉ biết cách đây hơn hai trăm năm thanh trà Huế là một trong những đặc sản được chọn để tiến vua. Từ lâu, tôi đã được nghe cam Xã Đoài, bưởi Phúc Trạch, quýt Hương Cần, thanh trà Nguyệt Biều. Bây giờ tôi mới biết thêm thanh trà Hương Vân cũng ngon không thua kém thanh trà Nguyệt Biều. Mà ở Hương Vân thì thanh trà làng Lại Bằng đứng đầu sổ. Trong cuộc thi do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức mới đây, thanh trà của vườn nhà bên cạnh chị Diệu Hương đoạt giải cá nhân. Theo chị Hương thì loại đất phù sa ở làng chị có kết cấu đặc biệt mà đất các vùng khác không có. Tôi chợt nhớ chuyến đi Xã Đoài. Được biết nhiều người lấy giống từ cam Xã Đoài về trồng nhưng quả lại không ngon như cam trồng ở trên đất Xã Đoài. Rõ ràng kết cấu đất đai đóng một vai trò hết sức quan trọng. Tất nhiên, ngoài yếu tố đất đai còn có bí quyết chăm bón. Cũng theo chị Hương: thanh trà ở Lại Bằng vỏ mỏng, múi dày, ít hạt, nhiều nước so với thanh trà của một số làng lân cận. Thanh trà không chỉ ăn ngon mà còn là một vị thuốc chống được nhiều thứ bệnh như cao huyết áp, tiểu đường… Cây thanh trà một thời từng là nguồn thu nhập chính của gia đình chị. Nhưng mấy năm lại đây mọi chuyện đã thay đổi. Sau nạn lụt thế kỷ 1999, cả vườn thanh trà nhà chị bị ngập nước, chết sạch. Phải chiết cành, gieo giống trở lại. Chờ bảy tám năm ròng mới thu hoạch. Kể từ khi xây đập thủy điện ở đầu nguồn sông Bồ, lượng phù sa ngày càng ít đi. Thanh trà vì thế mà hơi chậm quả và quả cũng không ngon như trước đây nữa. Bây giờ thanh trà không còn là nguồn thu nhập chính của gia đình chị Diệu Hương.

Tôi hỏi chị:

- Vậy tại sao chị vẫn trồng thanh trà?

Chị nói:

- Tui trồng thanh trà chủ yếu làm quà biếu và như là thú chơi cây cảnh lúc về già.

Tôi được biết: chồng chị bị bệnh hiểm nghèo qua đời đã hơn mười năm nay. Cây thanh trà là kỷ niệm của anh chị. Mối tình anh chị đơm hoa kết trái dưới tán cây thanh trà. Cây thanh trà đã giúp anh chị vượt qua những năm tháng khó khăn, nuôi con ăn học nên người. Vì thế mà chị không nỡ bỏ nó. Thoáng trong mắt chị một nét buồn thăm thẳm…

Từ cây thanh trà ở làng Lại Bằng, tôi chợt nhớ cây bòng (bưởi) quê tôi. Bòng là loại cây cùng họ với thanh trà, chỉ có điều vỏ dày hơn, tép to hơn. Thời đó, bắt chước người lớn, bọn trẻ quê tôi cũng tổ chức đua thuyền. Thuyền chúng tôi phần lớn làm bằng vỏ quả bòng... Tôi có hai người anh bà con. Ba chúng tôi cùng lứa với nhau. Anh Nguyễn Mạnh Tường hơn tôi ba tuổi. Anh Nguyễn Ngọc Trản hơn tôi hai tuổi. Chúng tôi chọn những quả thật to trong số bòng mẹ tôi mua từ trên nguồn về. Sau khi đã nếm vị the the, chua chua, ngọt ngọt của những múi bòng, chúng tôi dùng dao gọt vỏ bòng thành chiếc thuyền có mũi, có lái hẳn hoi rồi hái lá mít làm buồm. Buồm gồm hai lá: lá to, lá nhỏ. Lá to cắm giữa lòng thuyền, lá nhỏ cắm đầu mũi thuyền. Cột buồm và bánh lái làm bằng tre hoặc nứa. Trong những chiếc thuyền vỏ bòng thì thuyền do anh Trản làm là đẹp nhất. Anh có hoa tay. Tôi đặc biệt thích đôi mắt thuyền của anh. Anh chỉ lách vài đường dao đã hiện lên đôi con mắt thuyền hết sức sắc nét. Chúng tôi mang thuyền xuống bến sông. Phải đợi những lúc gió thổi mạnh đua thuyền mới thú. Hàng chục chiếc thuyền bằng vỏ bòng lướt sóng băng băng. Chúng tôi đứa nào cũng trần như nhộng, vừa bơi vừa reo hò cổ vũ. Có chiếc đang chạy bỗng lật nhào rồi bất ngờ ngoi lên chạy tiếp. Có chiếc không tài nào ngoi lên được đành bỏ cuộc một cách đáng tiếc. Trong các lần đua thuyền vỏ bòng, thuyền anh Tường bao giờ cũng về nhất. Anh có cách bẻ lái rất thiện nghệ. Kiểu bố trí hai cánh buồm của anh cũng rất hợp lý. Gia đình anh làm nghề đánh cá nên anh khá thông thạo trong việc tính toán luồng lạch. Thuyền anh Trản thường về thứ hai. Còn thuyền của tôi hầu như lần nào cũng về chót. Tôi bị hai anh trêu hoài. Được cái, tôi không hề tự ái vì thủ phận là hạng em út và vốn biết mình rất vụng trong các cuộc thi thố, đua tranh. Cuối buổi, chúng tôi làm “lễ” tiễn biệt thuyền hết sức “long trọng”. Anh Tường thường đặt lên thuyền một chiếc vỏ ốc hay vỏ sò. Anh Trản thường đặt lên thuyền một đồng tiền xu. Còn tôi thì thường đặt lên thuyền một bông hoa xương rồng. Chúng tôi nhẹ nhàng thả những chiếc thuyền vỏ bòng. Gió đưa hàng chục chiếc thuyền đi xa dần, xa dần... Ba chúng tôi cứ đứng nhìn theo, nhìn theo mãi... cho đến khi những chiếc thuyền mất hút trong khoảng không vô tận. Ngày hôm sau, chúng tôi làm những chiếc thuyền vỏ bòng mới, lại tiếp tục tổ chức cuộc đua và làm lễ tiễn biệt thuyền.

Có hôm tôi nằm mơ thấy con thuyền của mình trôi êm ả giữa đôi bờ cỏ hoa. Một cô bé dáng thanh mảnh, mắt đen láy, tóc buông dài chấm gót, cài chiếc nơ màu hồng, đôi vai trần nhỏ nhắn đứng trên bờ đưa tay vẫy vẫy. Chiếc thuyền của tôi từ từ quay mũi hướng vào bờ rồi đậu ngay trước mắt cô bé. Cô bé nâng chiếc thuyền vỏ bòng bằng những ngón tay thon đẹp của mình. Cô thích thú reo lên khi phát hiện một bông hoa xương rồng màu vàng, tươi rói nằm ngay giữa lòng thuyền. Khi tôi vừa chạy đến thì cô bé đã biến đâu mất. Tỉnh dậy, tôi cứ tiếc ngẩn, tiếc ngơ...

Không ngờ giấc mơ ấy lại ứng với mối tình đầu của tôi. Người mà tôi thầm yêu có cái tên rất dễ thương: Thanh Trà! Nhà nàng trồng rất nhiều cây bòng, cây nào cũng trĩu quả, quả nào cũng múi to, mọng nước, vừa thanh vừa ngọt. Tôi làm khá nhiều thơ về nàng, về hương vị của những quả bòng trong vườn nhà nàng… nhưng rụt rè không dám gửi. Mãi đến khi chia tay đi học xa, tôi mới mạnh dạn dúi vội vào tay nàng một bài… Mối tình đầu không thành, nhưng nói như Thế Lữ: Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy/ Ngàn năm chưa dễ mấy ai quên… Bình Trị Thiên sáp nhập. Tôi với nhà thơ Hải Kỳ cùng ngồi trên một chuyến xe vào Huế dự Đại hội Văn nghệ. Vợ Hải Kỳ vừa sinh con trai. Vợ tôi sinh con gái. Chúng tôi bàn chuyện đặt tên cho con. Hải Kỳ chọn tên Văn: Trần Minh Văn - với mong muốn sau này Văn sẽ nối nghiệp cha. Tôi chọn tên Thanh Trà: Mai Thanh Trà - để nhớ về mối tình đầu. Nhưng khi đến nhà, vợ tôi đã làm giấy khai sinh cho con gái với tên Mai Lan Hương. Thế là cái tên Thanh Trà tôi đành cất giấu trong lòng…

Anh Tường, anh Trản và tôi lớn lên mỗi người một số phận. Anh Tường có nước da bánh mật, ăn sóng nói gió. Mặc dù có đi dạy học, đi bộ đội nhưng cuối cùng anh lại trở về với nghề biển như là một cái nghiệp. Trách gì thời thơ ấu những chiếc thuyền bằng vỏ bòng của anh lúc nào cũng về nhất. Anh Trản dáng người tầm thước, tính rất hiền nhưng lại dễ nổi nóng. Thời học lớp hai trường làng, chỉ vì ẩu đả với một cậu bạn trong lớp mà anh suýt bị đuổi học. Tốt nghiệp trung cấp sư phạm, anh trở thành một giáo viên dạy toán rất có năng lực. Nhưng cái tính nóng nảy một lần nữa lại làm hại anh. Một hôm, vừa đi dạy về, nghe tin cậu em trai bị hàng xóm đánh đến thập tử nhất sinh, anh tìm đến nhà hàng xóm hỏi tội... Anh bị công an huyện bắt giam bốn tháng trời. Rồi lấy cớ anh có “tiền án” người ta đưa anh vào diện giảm biên. Anh phải sống qua những năm tháng cực kỳ khó khăn: vợ đau yếu, các con đang tuổi ăn học. Để có tiền nuôi cả nhà, anh xoay đủ nghề: dạy kèm, chữa xe đạp… vẫn không đủ ăn. Cuối cùng anh quyết định chuyển sang làm hàng mã đem bán... Không ngờ sự khéo tay thời làm những con thuyền bằng vỏ bòng của anh lại được phát huy. Dạo này người dân quê tôi cúng bái nhiều nên hàng của anh “đắt như tôm tươi”.

Trước khi về Hương Vân tham gia trại sáng tác một vài hôm, rất tình cờ, tôi gặp lại Thanh Trà. Nàng đã yên bề gia thất nhưng vẻ đẹp thanh mảnh, đài các thì vẫn như xưa. Tôi hỏi nàng có còn nhớ bài thơ tôi tặng hôm chia tay không? Nàng chỉ tủm tỉm cười…

Trong ba anh em, mỗi mình tôi là còn chơi trò thả thuyền. Nhưng không phải là những con thuyền vỏ bòng mà là những con thuyền giấy. Trên những con thuyền giấy, tôi không đặt một bông hoa xương rồng mà đặt một bài thơ. Hàng trăm bài thơ của tôi đã rơi vào hư không như “trò chơi vô tăm tích”. Tôi chỉ cầu mong có một đôi bài neo đậu lại ở một bến bờ nào đó, như những chiếc thuyền vỏ bòng được cô bé thắt nơ hồng nâng niu trên đôi bàn tay xinh xắn trong giấc mơ thời thơ ấu.

M.V.H   
Trại sáng tác Hương Vân, 21/7/2011
(271/09-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT HÙNG

    “Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu, anh giải phóng quân Lào biên giới đẹp sao...”*- Câu hát từ thời chống Mỹ, đã trở nên xa xăm, song giờ đây, thỉnh thoảng nó vẫn vang lên trên các sóng phát thanh...

  • ÐÔNG HÀ

    Tôi là người sinh ra sau chiến tranh, lớn lên bằng những bài học lịch sử. Thế hệ chúng tôi yêu Tổ quốc theo những bài học ông cha để lại qua những trang sách cộng thêm chút tính cách riêng của chính bản thân mỗi người. Mỗi người chọn cho mình một cách thể hiện tình yêu đó khác nhau.

  • CHẾ LAN VIÊN

    Hồi ký về Đoàn Nghệ thuật Xây dựng (Huế 1946)

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                              (Bút ký)

    Ông Lê nguyên giám đốc sở Văn hoá Bình Trị Thiên, một lần về Thủy Dương lấy  tài liệu viết tuyên truyền cho vụ lúa mùa, đã cụng đầu với ông bí thư xã.

  • TẠ QUANG BỬU
                    (Hồi ký)

    Tôi đã học ở trường Quốc Học bốn năm từ năm 1922 đến 1926, cách đây đúng 60 năm.
     

  • TRỊNH BỬU HOÀI

    Đất trời đang mặc chiếc áo mới cho trần gian. Con người cũng thay chiếc áo mới cho mình. Chiếc áo khoác trên đôi vai sau một năm oằn gánh công việc. Chiếc áo phủ lên tâm hồn ít nhiều khói bụi thế nhân.

  • NHỤY NGUYÊN

    Một câu trong Kinh Cựu ước: Khởi thủy là lời. Tôi không dám khoác thêm bộ cánh mới, mà chỉ muốn tìm cho nó một mỹ từ gần gũi: Khởi thủy là mùa Xuân.

  • ĐÔNG HƯƠNG

    Trí nhớ tôi tự dưng quay trở về với tuổi thơ, tuổi ba mẹ vừa cho đi học. Ờ! Lâu quá rồi, cái Tết đối với tôi không còn ý nghĩa gì nữa, trí nhớ lơ mơ trở lại khoảng đời thơ ấu, có lẽ đẹp nhất trong đời của mỗi con người của chúng ta.

     

  • TRẦN HỮU LỤC (Tùy bút)

    Tháng Chạp ở quê tôi là tháng của hoa mai. Dường như màu của hoàng mai tươi thắm khắp mọi nẻo đường. Những chậu mai kiểng, vườn mai chùa, vườn mai nhà, đường phố mai, công viên mai, những thung lũng mai núi… đến thì lại nở đẹp một màu vàng mỏng nhẹ trong sương sớm.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Bút ký lịch sử)

    Nhiều năm men theo dấu chân của nàng Huyền Trân, công chúa nhà Trần mở đất Ô, Lý, hễ có dịp là tôi lại hành hương đất Bắc. Viếng đền thờ các vua nhà Trần ở làng Tức Mặc - nơi ấy nay thuộc phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định.

  • HÀ THÚC HOAN

    Những ai đã từng là học sinh trường Quốc Học - Huế đều có Một thời Quốc Học(1). Thời Quốc Học của tác giả bài viết này là ba năm học tập ở các lớp đệ tam (lớp 10), đệ nhị (lớp 11) và đệ nhất (lớp 12), từ năm 1956 đến năm 1959.

  • TRẦN HUY MINH PHƯƠNG (Tùy bút)

    Thoáng một cái, xài hết ba trăm sáu mươi lăm ngày mà hổng biết. Bao dự tính giằng co rồi dang dở, chưa kịp nghĩ thấu, chưa xiết làm xong, phân vân nhiều nốt lặng, yêu người chưa sâu nặng, nợ người chưa trả xong… ngày giũ vội qua đi. Ngẩn ngơ, mùa về!

  • THIẾU HOA Hắn! Một vị khách không mời mà đến. Hắn đến viếng nhà tôi trong một đêm mưa to gió lớn. Cả nhà ai cũng biết sự có mặt của Hắn. Đêm đầu tiên cứ nghĩ Hắn chỉ trốn mưa tạm thời rồi hôm sau sẽ đi. Nhưng đến nay đã qua một mùa xuân, Hắn vẫn còn ung dung tự tại ở trong nhà, lại ở đúng trong phòng của tôi như một thành viên chính thức trong gia đình.

  • PHAN QUANG                Trích hồi ký ... Đến thị xã Sơn La chiều hôm trước, sáng hôm sau trong khi chờ đến giờ sang làm việc với Khu ủy Tây Bắc, đồng chí Nguyễn Chí Thanh - mà các đồng chí gần gũi đều quen gọi bằng tên thân mật: anh Thao - cho mời chủ nhiệm nhà khách của khu tới.

  • VÂN NGUYỄN                 Tùy bút “Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa...” (Trịnh Công Sơn)

  • PHAN THỊ THU QUỲ Ba tôi - liệt sĩ Phan Tấn Huyên, Nguyên Chánh Văn phòng Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Thừa Thiên - thường dặn tôi mấy điều: dù khó khăn đến mấy cũng không được ngừng nghỉ phấn đấu học hành bởi tri thức là sức mạnh; dù như thế nào đi nữa cũng phải giữ cho được bản sắc văn hóa Huế rất đỗi tự hào của mình...

  • TẤN HOÀI Một khung trời mây Một dải gương lung linh cuộn quanh hoàng thành cổ kính. Trầm mặc và ưu tư. Tưởng chừng như thế!...

  • XUÂN HOÀNG Tôi được Hội Nhà văn Việt Nam cử đi thăm hai nước Ru-ma-ni và Bun-ga-ri đúng vào những ngày đầu xuân Mậu Thân, sôi động.

  • HỮU THU & BẢO HÂN                                     Ký   Đến bây giờ nhiều người vẫn chưa quên hình ảnh hãi hùng mà cơn bão mang tên Cecil tàn phá vào cuối tháng 10 của năm 1985 ở miệt phá Tam Giang của tỉnh Thừa Thiên-Huế.

  • PHẠM THỊ CÚC Thầy dạy lớp Nhì Thầy dạy lớp Nhì tên Thanh. Người thầy roi roi, hơi thấp và nhỏ con. Bù lại, thầy rất nhanh nhẹn và vui vẻ, hoạt bát, nụ cười luôn nở trên môi.