MAI VĂN HOAN
Không hiểu sao nghĩ về Hoàng Vũ Thuật tôi lại nhớ đến Những bông hoa trên cát; mặc dù anh đã có thêm Thơ viết từ mùa hạ và Gửi những ngọn sóng.
Ảnh: internet
Ở đây, tôi không có ý nói rằng: Những bông hoa trên cát là tập thơ trội nhất của anh. Tôi muốn nói: Những bông hoa trên cát là cách gọi đúng nhất, gợi nhất về thơ Hoàng Vũ Thuật. Thơ anh là những chấm trắng đính như những ngôi sao trên thân cây xương rồng thô tháp và đầy gai nhọn. Những bông hoa ấy không sặc sỡ, không ngát hương chỉ mỏng mảnh dung dị nhưng lại có sức sống bền dai. Thoạt nhìn có thể chưa thích lắm, song ngắm kỹ mới thấy quý cái màu kết tinh từ cát ấy.
Nếu được trình bày bìa thơ Hoàng Vũ Thuật, tôi sẽ lấy màu cát trắng làm nền. Trên cái nền bằng cát là những cây xương rồng "đứng chen nhau như tháp dựng giữa trời" điểm những bông hoa cũng trắng như màu cát. Hoàng Vũ Thuật lớn lên ở một vùng quê nghèo. Cuộc đời anh gắn liền với cát. Về Đồng Hới, anh nhìn thấy: "bên kia sông bãi cát nắng lên đầy", qua Bạch Bằng anh nhìn thấy những dãy nhà, "loi thoi trên doi cát", đi dọc bờ sông Hồng, anh cũng thấy "bãi cát lô xô lụa trắng", cho đến khi ra đảo, cát vẫn bám theo anh:
Gió đi qua đỉnh cát
Thành gợn sóng mặt hồ
Trắng một màu da diết
Quen rồi còn ngẩn ngơ
Vì sao đi đâu anh cũng nhìn thấy cát, anh cũng gặp cát, anh cũng nói về cát như vậy? Dễ hiểu thôi, bởi như anh đã nói "Tôi lớn lên cát ở cùng tôi, tôi với cát gần nhau máu thịt". Nơi đó, anh có một căn nhà nhỏ, có "trái bát hoang đỏ mọng dưới lùm cây", có "gốc khế đầu mùa hoa tím không hay", có tiếng cu gáy, thân cau già, có người mẹ hiền mảnh khảnh "hạt cát dấu trong nếp nhăn vầng trán", có người bạn đời tảo tần của anh ngồi chải tóc bên thềm "bao hạt cát rơi cùng tóc rối", có cả con chim cheo cheo đẻ trứng bỏ quên "cát ấm ngày thu nuôi trứng nở"… Bởi vậy, ít ai hiểu cát bằng anh, ít ai yêu cát bằng anh, ít ai thủy chung với cát như anh. Hoàng Vũ Thuật nghe cả "hơi thở" của cát, nghe cả "tiếng nói" của cát "bằng âm vang cát xát dưới chân mình". Trên cái xứ sở mà cát có thể "luộc chín trứng gà", gió Lào "uốn cong ván gỗ" ấy người, vật, cỏ cây, chim muông... đều mang dáng khắc khổ, nhỏ bé, tội nghiệp. Chỉ qua âm thanh tên gọi các loại cây, các loại chim trong thơ Hoàng Vũ Thuật cũng gợi lên điều đó. Cây thì cây "xương rồng", cây "chim chim". Chim thì chim "cheo cheo", chim "ri rí"... Trong thơ anh ta bắt gặp rất nhiều chữ "gầy": "Bóng mẹ gầy che nắng nôi",
"em gầy đi những tưởng có ngày không gầy nữa", "Đồng cát lấp hạt phù sa gầy", "Ngưng trên cây trên lá khô gầy"... Chỉ qua hạt cát bình thường anh đã phát hiện ra bao nhiêu nghịch lý: cát gần gũi thân quen mà vẫn ngỡ ngàng mới lạ, cát vừa dễ hiểu lại vừa khó hiểu, rất nhỏ bé nhưng lại rất lớn lao:
Nhỏ nhoi như hạt cát
Còn gì nhỏ hơn không
Triệu triệu năm sau trước
Đã kết thành nước non!
(Cát ở đảo)
Nhưng cái gì cũng có giới hạn của nó, Hoàng Vũ Thuật hơi sa đà khi nói về cát. Vì thế anh khó lòng tránh khỏi việc lặp lại chính mình. Cứ nói mãi về cát dù biến hóa đến mấy cũng dễ gây cảm giác nhàm chán, lẩn quẩn. May mà đến Gửi những ngọn sóng anh biết dừng lại và chuyển hướng một cách kịp thời. Từ "cát" - một cái gì rất thật được cảm nhận bằng trực giác cụ thể, đến "sóng" - một cái gì lay động lan tỏa là bước đi của thơ Hoàng Vũ Thuật. Đi xa cái cụ thể đòi hỏi người viết phải hướng sâu vào thế giới nội tâm. Có người cho rằng thơ anh thiên về triết lý. Nói như vậy không phải không có cơ sở. Nhưng dạng thơ như thế không nhiều và ít thành công. Bài thơ "Gửi mẹ" có những câu rất hay như "khoảng sáng trên đầu như mắt mẹ lo âu". Tiếc là toàn bài chất giáo huấn hơi lộ. Triết lý mà anh rút ra trong bài thơ không có gì mới. Điều đó người ta đã nói quá nhiều. Và tôi tin rằng cả mẹ nữa, mẹ cũng không hài lòng khi anh cố giải thích cho mẹ hiểu rằng:
Mẹ ơi, nếu trên đường bằng phẳng
Đâu dễ dàng đến được tình yêu
Ở bài thơ "Đề tặng" anh ghi lại một kỷ niệm khá cảm động. Những cái tính ưa triết lý của anh đã làm phương hại ít nhiều đến không khí chung của bài thơ. Trong lúc cô em gái của người du kích đang khóc vì thương tiếc bên mộ anh trai mình, lẽ ra cần im lặng thì anh lại an ủi bằng giọng triết lý khô khan:
Đừng khóc em, những người chết có cách sống riêng
Như những người sống mà đang chết
Cũng một cách riêng
Nhưng những câu thơ như thế không nhiều. Phần lớn thơ Hoàng Vũ Thuật - đặc biệt ở tập Gửi những ngọn sóng là thơ tâm trạng. Khi đã qua quá nửa cuộc đời anh thường giật mình nghĩ đến thời gian. Thời gian để lại trong anh nhiều băn khoăn day dứt:
Những giận dỗi để nhiều đêm thức trắng,
Ta đâu biết thời gian nghiệt lắm
Cứ lặng lẽ trôi ngoài cửa sổ vô tư
Áo ta mang bạc trắng từ bao giờ
(Với thời gian)
Ngày tháng quay về, ngày tháng ra đi
Tóc anh nhòa trong chiều mây trắng
(Ngày tháng)
Rồi con ra đi cùng tháng ngày lầm lũi
Mẹ đứng giữa vườn như bóng mát chờ con Và tháng ngày cứ thế dày hơn
Và cứ thế con vẫn là thơ dại
(Ngày giờ yên tĩnh)
Hoàng Vũ Thuật có nhu cầu bày giải. Anh muốn mọi người hiểu và cảm thông với anh. Bao giờ anh cũng hướng tới một đối tượng trữ tình cụ thể. Anh thường tâm sự giải bày với một người nào đó. Người đó có thể là mẹ anh, có thể là người đã khuất, là bạn bè... Nhưng đối tượng trữ tình chủ yếu của anh là "em". Ở tập thơ đầu "em" xuất hiện còn thưa thớt, tập thứ hai "em" đã chiếm gần một nửa số bài, đến tập thơ thứ ba "em" hầu như có mặt khắp nơi. Trước đây, anh viết nhiều về cát, bây giờ anh viết nhiều cho em. Chọn "em" làm đối tượng trữ tình là phù hợp với cái tạng "đa tình" như lời tự thú của anh trong "Bài ca ban mai". Với Hoàng Vũ Thuật đối tượng này giúp anh bộc lộ tâm trạng dễ dàng hơn. Qua "em" anh muốn nói với mọi người. Em của anh thường mơ hồ nửa thực, nửa hư:
Em như con chim nhỏ của tôi
Vừa đậu đó đã biến vào sắc lá
(Đi với em trên bãi sông Hồng)
Em rất gần, lại rất xa xôi
Thật đến thế mà lung linh thế
(Cổ tích Hội An)
Em như là lá ấy
Vừa xanh lên cuối trời
Che hồn tôi một nửa
Qua đêm đầy sương rơi
(Không đề)
Thơ tình của Hoàng Vũ Thuật đằm địa, hơi bóng gió. Anh ít gây ấn tượng mạnh, ít có những tứ thơ táo bạo. Nhiều khi anh hơi lạm dụng "nhân vật trữ tình" ấy. Người đọc có cảm giác anh nói với em hơi nhiều và đôi lúc không đúng chỗ. Chẳng hạn viết về Vực Tròn, anh cũng nói đến "em", viết về Hồng Gai cũng có "em", viết về Cát ở đảo anh cũng không quên nhắc đến "em". Ở một số bài thơ, hình như anh cố gắng cái riêng với cái chung nên thơ tình của anh hơi thiếu tự nhiên, hơi "điệu đà" một chút. Bài "Cỏ" của anh là một trong những bài thơ hay. Cỏ gắn liền với kỷ niệm, cỏ gắn liền với tình yêu. Cái mạch thơ đang tuôn trào thì bất ngờ anh chuyển giọng:
Đất nước mình như lá cỏ tiên
Xanh hiền hậu không đầu, không cuối
Bom đạn bao đời không bật gốc nổi
Cỏ bay lên tia lửa mặt trời
Giá như không có khổ thơ ấy bài thơ sẽ rất hoàn chỉnh, rất tự nhiên. Cái khổ thơ anh cố đưa vào để nhằm nâng cao tính tư tưởng đã phần nào phá mất cái thế hoàn chỉnh, tự nhiên của cả bài thơ.
Hoàng Vũ Thuật ít có những bài đối thoại trực tiếp với cuộc sống hiện tại. Tuy vậy, đây đó chúng ta vẫn bắt trong thơ anh những lời phát biểu gián tiếp. Muốn hiểu thơ anh phải nghiền ngẫm qua nhiều tầng nghĩa. Anh có kiểu nói riêng của mình rủ rỉ, lặng lẽ, thầm lặng. Khi anh viết: "Ai mơ màng dưới tán những chiếc ô", chỉ nghĩ đơn thuần anh đang tả thực. Câu thơ ám chỉ những kẻ chuyên sống nhờ "ô dù" của những người có quyền thế. Khi anh viết:
Cỏ gai chích đến tê người
Thành than, cỏ gấu lại mọc
Cỏ ống đâm, vỡ củ khoai
Cỏ tranh ăn cằn khô đất
Thì chớ vội nghĩ anh chỉ nói đến cỏ - Chẳng qua anh muốn mượn cỏ để nói đến bọn sâu mọt trong xã hội hiện nay. Bài "Lau trắng" có những câu buộc chúng ta phải suy nghĩ về trách nhiệm của mình trước những người đã hy sinh vì Tổ quốc:
Ở đâu đồng bãi biếc thanh
Ở đâu ngọn khói chiều xanh với chiều
Đâu con đường của tình yêu
Tím màu hoa tím, rất nhiều là đâu
Mà đây lau nối mùa lau
Ứa từ sông thấp, núi cao chẳng ngừng!
Có thể có người không ưa cách nói của anh. Đó là quyền của mỗi người. Nhưng đừng vì thế mà bắt anh phải viết như người khác. Nếu ai cũng viết như nhau thì đâu còn bản sắc riêng nữa. Mà không có bản sắc nghĩa là không tồn tại. Hoàng Vũ Thuật tự nhận một cách khiêm tốn:
Tôi chẳng là con tàu vượt sóng
Xin lặng thầm một chiếc neo
Nhưng chính nhờ chiếc mỏ neo ấy mà không ít thơ anh đã neo lại được trong tâm hồn những độc giả tâm đắc. "Bài hát trái dâu da" của anh tôi thuộc lúc nào không biết nữa. Vào những đêm yên tĩnh, tôi như chợt nghe "cánh chim không tuổi" của anh bay khắp bầu trời:
Cất tiếng ca lảnh lói
Dâu da, dâu da ơi!
Ba tập thơ trong gần hai mươi năm lao động nghệ thuật cần cù, bền bỉ đâu phải là nhiều. Nhưng so với bạn bè cùng lứa đang xếp hàng chờ đến lượt mình (trong lúc người ta xem thơ như một món hàng thừa ế) thì anh quả là người may mắn. Hơn nữa cuộc đời dành cho thơ anh đúc kết như một chân lý:
Phải tận cùng nước mắt
Tận cùng nỗi khổ đau
Cho câu thơ được thật
Nửa hồn tôi phía sau...
Với điều tâm niệm ấy chắc chắn anh sẽ không chịu dừng lại ở những gì đã có.
Huế, ngày 10-7-1987.
M.V.H
(SH28/12-87)
-------------------
(1) Nhân đọc "Những bông hoa trên cát", "Thơ viết từ mùa hạ", "Gửi những ngọn sóng" Thơ Hoàng Vũ Thuật.
ĐẶNG TIẾN
Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
LƯƠNG THÌN
Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.
VƯƠNG TRỌNG
Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).
NHỤY NGUYÊN
Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.
LÊ THỊ BÍCH HỒNG
Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).
THÁI KIM LAN
Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
HOÀI NAM
Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.
ĐỖ LAI THÚY
Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.
TRẦN NHUẬN MINH
Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).
YẾN THANH
“vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
ngọn lửa phù du mách bảo
vui buồn tương hợp cùng đau”
(Hồ Thế Hà)
Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.
NGÔ THẢO
Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.
Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).
NGÔ ĐÌNH HẢI
Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.
NGÔ MINH
Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.
DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN
Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.
NGUYỄN HIỆP
Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.
Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.