Truyện ngắn Lê Khánh Mai

08:44 10/04/2009
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

Nếu thơ Lê Khánh Mai đằm thắm, sâu thẳm, đầy chất men say và đầy trí tuệ, thì truyện ngắn Lê Khánh Mai giản dị chân thật nhưng duyên dáng, ý nhị, tỉ mẩn "Nết" là truyện ngắn mang tên chung cho toàn tập có 9 truyện, với 172 trang sách - Lê Khánh Mai đã dẫn dắt người đọc vào những mảnh đời, những tình huống cùng những ngóc ngách tâm lý bí ẩn của các nhân vật mà ta có thể bắt gặp chung quanh mình trong cuộc sống đời thường. Là Hạnh - Trung tá cựu chiến binh (Chuyện tình 20 năm) một thời lái xe tăng, anh đã nhặt được một bé gái bên xác người mẹ bị xe tăng địch nghiến chết trong cuộc rút chạy khi ta mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh bị khiển trách, bị giáng cấp, bởi vi phạm kỷ luật trong lúc làm nhiệm vụ mà cưu mang một đứa trẻ. Về sau có người góa phụ trẻ cảm vì nghĩa cử cao đẹp của anh nên đem lòng yêu anh, rồi cưu mang đứa bé giúp anh khi anh đi chiến trường K. Đời lính nay đây mai đó, cùng với những nguyên tắc của tổ chức, anh cứ lận đận mãi đến khi có điều kiện xây dựng gia đình thì người thiếu phụ đợi chờ anh mỏi mòn đã lâm trọng bệnh mà chết, để lại đứa con nuôi của anh đã khôn lớn là Phương, cậu học sinh lớp 12A ban đêm đạp xích lô chở khách kiếm tiền nuôi các em vì bố mẹ chết sớm. Một lần cô giáo đi công tác về khuya trên sân ga gặp Phương - mới biết được hoàn cảnh của Phương. Về sau Phương trở thành một bác sĩ giỏi. Cô giáo cảm thấy hạnh phúc vì người học trò ngoan và giỏi của cô đã thành đạt. Do quan niệm hẹp hòi đố kỵ và thiển cận, những người lãnh đạo địa phương đã lên án bà Tính - một góa phụ vì chuyện quan hệ nam nữ, làm cho cô con gái độc nhất của bà là Nết cảm thấy xấu hổ nhục nhã, bỏ học, bỏ nhà trốn biệt tăm (Nết). Nhiều năm sau nhân vật "tôi" bạn thân của Nết ra sức đi tìm bạn mà không gặp. Khi đã có chồng con, công việc ổn định ở thành phố, một lần nghe bà Tính ốm nặng khó qua khỏi, "tôi" chuẩn bị về quê thăm bà, thì vừa lúc người môi giới dẫn đến cho "tôi" một người giúp việc. Thật hết sức bất ngờ, đó là Nết. Truyện kết thúc ở đây cho người đọc rộng đường suy nghĩ. Chắc chắn Nết sẽ trở thành một thành viên thân quý của gia đình "tôi", tình bạn giữa Nết và "tôi" sẽ còn thắm thiết hơn xưa, dẫu muộn "tôi" vẫn tạo điều kiện cho Nết đi học tiếp, và điều quan trọng hơn hết là mẹ của Nết được gặp mặt con gái lúc lâm chung.

Nhân - Lính trinh sát. Sau giải phóng tìm về quê mới biết mẹ già đã theo bà con đi kinh tế mới ở một tỉnh cao Nguyên Trung bộ (Ngọn lửa dương thế). Anh liềân đi tìm mẹ. Trên đường bị kẻ gian rạch ba lô lấy hết giấy tờ, tiền bạc và cả vé tàu. Mọi lời trần tình của anh lúc nầy không được một ai tin. Anh bị đẩy xuống tàu, đi bộ hàng tháng trời để tìm mẹ, đói khát phải xin ăn dọc đường, nhưng khi đến nơi anh chỉ được gặp ngôi mộ của mẹ với con chó mẹ nuôi đang nằm bên mộ chủ. Từ đó anh sống với con chó, ban đêm anh đốt lửa để sưởi ấm mộ mẹ và sưởi ấm luôn những ngôi mộ lân cận. Tin cậy anh, nhiều người thuê anh đốt lửa hàng đêm cho thân nhân họ trong nghĩa trang. Trước tình cảnh khốn cùng đó có một cô gái đem lòng yêu anh, cô dành dụm toàn bộ số tiền làm thuê tặng anh làm lộ phí trên đường tìm đơn vị cũ để xin lập lại giấy tờ đã mất.

"Khoảng trời - cánh bay" và "Những con thiêu thân" là hai truyện chững chạc nhất. Hà Giang - cô nữ sinh xinh đẹp của lớp 12A đầy ắp mơ ước (Khoảng trời - Cánh bay). Mỗi người chọn cho mình một ngành học, Hà Giang thì đỗ vào đại học sư phạm Khoa văn. Nam được chọn đi học lái máy bay ở nước ngoài. Nam và Hà Giang vẫn thư từ đều đặn cho nhau. Nam trở thành niềm tự hào của cả lớp 12A. Chàng phi công trẻ học xong trở về nước, về trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật để học lái một số loại máy bay mới. Cự ly giữa Nam và Hà Giang mãi vẫn chưa được thu nhỏ, dẫu cường độ có lớn mạnh"... ở trường đại học có bao chàng trai khỏe mạnh tài hoa trắng trẻo thư sinh nói giọng đô thành ngọt ngào như mật rót (...) Rồi bao nhiêu buổi sinh hoạt câu lạc bộ, dạ hội, những chuyến đi thực tập sư phạm... Có trời mà ngăn cản được tình yêu của họ" (T.105). Chàng phi công trẻ đã quyết gạt bỏ nỗi đau tình đơn phương khi cất cánh, như có lần anh đã nói cho Hà Giang biết những nguyên tắc bất di bất dịch của nghề lái máy bay, để Hà Giang có nhận thức đầy đủ rằng "Một phi công nào cũng bay lên từ mặt đất. Trên mặt đất lại có bao nhiêu mối quan hệ ràng rịt: gia đình, vợ con, người yêu, đồng đội... Chỉ một khúc mắc nào trong mối dây ấy đều nguy hiểm" (T.105). Hà Giang biết vậy nhưng cô không thể làm khác, còn anh thì nghĩ rằng anh chưa làm được gì cho Hà Giang cả, chính anh mới là người có lỗi. Suy cho cùng làm người lính bay thật hết sức cô đơn. "Khi cô đơn người ta có thể trở nên yếu đuối, nhưng cũng có thể trở nên mạnh mẽ hơn" (T.113). Và anh đã mạnh mẽ chiến thắng chính bản thân mình. Hôm nay cả phi đội anh bay. Dứt bỏ được gánh nặng tâm lý để tâm hồn thanh thản trước khi bay là một việc làm hết sức quan trọng. Bầu trời cao xanh lồng lộng trước mắt anh, phía dưới, biển quê hương đẹp vô cùng... Mạch văn duyên dáng trữ tình nhuần nhị của Lê Khánh Mai đã dẫn dắt tâm hồn người đọc theo những cánh bay với niềm yêu nghề tuyệt đối của các thế hệ phi công. Với khả năng quan sát nhạy bén Lê Khánh Mai đã miêu tả một thế giới đàn ông nát rượu mà trong đó Quờn và Hớn là hai nhân vật tiêu biểu (Những con thiêu thân). Họ là những con người hễ mở miệng ra là nói những lời khoa trương đại ngôn, nhưng họ chẳng làm nên chút tích sự gì, lại còn làm khổ nhiều người khác, làm khổ vợ con. Quờn làm thơ và Hớn giáo viên tiểu học, cả hai đều đông con và nghèo đến mức không thể nghèo hơn! "Ngày nào Quờn cũng đến quán rượu đọc thơ, ngả nghiêng khóc thương cả nhân loại lầm than (...)Đọc xong gã bốc một miếng dồi chó cuộn vào chiếc lá mơ, đưa lên miệng nhai ngóp nghép, nốc rượu đánh ực (...) gã ngả người trên chiếc ghế mây thở phì phì mãn nguyện như vừa hoàn thành một sứ mệnh cao cả. Lập tức năm, sáu ly rượu được nâng lên cụng vào nhau lắc cắc trăm phần trăm trong lời chúc tụng, những vẫn thơ thiên tài (...). Gã thương cả nhân loại mênh mông nhưng không đủ sức thương cái gia đình bé nhỏ của gã (...) vợ gã héo như một cái cây mới trồng chưa kịp bén rễ đã gặp cơn nắng lửa. Hai vợ chồng, năm đứa con, người đàn bà tần tảo lam lũ một cách nhẫn nhục với ý thức sâu sắc về thân phận làm vợ một gã thi sĩ gàn. Chị tin đó là định mệnh nên đành giơ đôi vai gầy guộc ra mà nhận lấy cái gánh trần gian (...) Từ ba giờ sáng lúc nhà thơ đang nghẹo cổ trên chiếu ngủ mùi chị đã lọ mọ dậy nhóm lò nấu bún riêu cua gánh ra đầu hẻm bán... (T.119) Thật là một bức tranh tả thực vô cùng sinh động! Làm được mấy bài thơ, được một tờ báo tỉnh lẻ đăng, hoặc xuất bản được một tập thơ:"...nhưng nó lọt thỏm vào cái vô tận của rừng thơ thời mở cửa" (T.117), đã tự cho mình là văn nghệ sĩ, và đã là văn nghệ sĩ thì phải sống khác người, có quyền sống khác người(!), lúc nào cũng dở giọng triết gia (dẫu học hành chưa đến đâu, nhiều khi viết một câu mắc đến mấy lỗi chính tả!). Trong thế giới đó còn có những người như Hớn. Họ kết với nhau vì “một người thích khoe thơ, còn người kia ưa khen nịnh” (T.112). Bức tranh tả thực nầy càng sinh động hơn khi Lê Khánh Mai khắc họa Hớn "Hằng đêm trở về nhà sau cuộc rượu gã co chân đạp cánh cổng đánh rầm. Đó là tín hiệu quen thuộc mà dẫu vợ y có đau ốm liệt giường cũng cố lết dậy mở cửa cho y. Vừa vào đến nhà y đổ cái cây thịt xuống sàn nhà, miệng lầu bầu: Con mẹ mày! Dọn cơm cho ông!(...) Hớn khua khoắng trong mâm như lão mù khua gậy làm thức ăn rơi vãi tùm lum(...) Hôm sau Hớn tỉnh dậy soi gương, chải tóc, áo bỏ trong quần, thắt lưng nghiêm chỉnh đến trường trong vai thầy giáo. Trưa về, vứt cái cặp vào xó giường, y khoan thai bước vào quán rượu. Dọc đường gặp ai y cũng cười, nụ cười hiền lành và tử tế" (T.124) Qua truyện ngắn này, Lê Khánh Mai tỏ ra có sở trường tả thực "Những con thiêu thân" là một bức tranh miêu tả những con người tự đốt cháy cuộc đời mình bằng sự xơ cứng, trơ lì, vô trách nhiệm, bằng ảo tưởng, và bằng rượu!

Nổi bật hơn hết là những nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Khánh Mai, người nào cũng dịu dàng, xinh đẹp, hết lòng vì người khác, hy sinh, chịu thương chịu khó, đó là Thảo trong "Ngọn lửa dương thế”, Điệp trong "Chuyện tình 20 năm", Hà trong "Đáp số hạnh phúc", vợ của Hớn, vợ của Qườn trong "Những con thiêu thân" Miên trong "Cánh buồm trên biển". Ngoài đề tài xã hội, sự am hiểm sâu sắc về quân đội và ngành giáo dục đã giúp Lê Khánh Mai thành công các truyện "Khoảng trời cánh bay", "Chuyện tình 20 năm", "Ngọn lửa dương thế", "Chuyện đời thường"... Tác giả thương những cuộc đời oan khuất như Nhân (Ngọn lửa dương thế), trân trọng những con người âm thầm lao động miệt mài như Phương (Chuyện đời thường) như Đông (Cánh buồm trên biển), thông cảm sẻ chia với những phụ nữ bất hạnh vì chồng vì con như vợ Qườn, vợ Hớn (Những con thiêu thân). Kết thúc là một chuyện tình thật đẹp (Cánh buồm trên biển). Những tình yêu đẹp, thơ mộng kiểu như vậy đã góp phần làm tươi mát cho tập truyện. Tuy nhiên, ở một vài chỗ Lê Khánh Mai có nhược điểm về ngôn ngữ đối thoại. Giá như "Ngọn lửa dương thế" được trau chuốt ngôn ngữ hơn thì truyện còn thành công hơn nữa. Thảo là một cô gái xuất thân mồ côi, không biết cha mẹ mình là ai, trở thành trẻ bụi đời, tội phạm, khi hoàn lương cô làm nghề bán than, lam lũ, nhưng khi nói chuyện với Nhân ngôn ngữ của cô quá bác học! Hoặc nhân vật Nhung (Tiếng gọi phía ngôi trường) trước khi trở thành cô giáo đã từng là thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhung có một quá khứ đẹp như vậy nhưng người đọc không thể yêu mến Nhung, bởi cung cách nói năng, phương thức tiếp cận của Nhung xơ cứng thô thiển và... có chút gì khoe thành tích(!)

Lê Khánh Mai đã có nhiều tập thơ hay, một tập tiểu thuyết và đây là tập truyện ngắn đầu tay của chị. Cây bút thơ này tỏ ra năng nổ tháo vát trên những trang văn xuôi giàu cảm xúc và hàm súc ý tưởng. Chúc chị thành công hơn nữa trong làng văn xuôi với những tác phẩm mới.

H.K.L
(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.