Truyện ngắn Lê Khánh Mai

08:44 10/04/2009
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

Nếu thơ Lê Khánh Mai đằm thắm, sâu thẳm, đầy chất men say và đầy trí tuệ, thì truyện ngắn Lê Khánh Mai giản dị chân thật nhưng duyên dáng, ý nhị, tỉ mẩn "Nết" là truyện ngắn mang tên chung cho toàn tập có 9 truyện, với 172 trang sách - Lê Khánh Mai đã dẫn dắt người đọc vào những mảnh đời, những tình huống cùng những ngóc ngách tâm lý bí ẩn của các nhân vật mà ta có thể bắt gặp chung quanh mình trong cuộc sống đời thường. Là Hạnh - Trung tá cựu chiến binh (Chuyện tình 20 năm) một thời lái xe tăng, anh đã nhặt được một bé gái bên xác người mẹ bị xe tăng địch nghiến chết trong cuộc rút chạy khi ta mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh bị khiển trách, bị giáng cấp, bởi vi phạm kỷ luật trong lúc làm nhiệm vụ mà cưu mang một đứa trẻ. Về sau có người góa phụ trẻ cảm vì nghĩa cử cao đẹp của anh nên đem lòng yêu anh, rồi cưu mang đứa bé giúp anh khi anh đi chiến trường K. Đời lính nay đây mai đó, cùng với những nguyên tắc của tổ chức, anh cứ lận đận mãi đến khi có điều kiện xây dựng gia đình thì người thiếu phụ đợi chờ anh mỏi mòn đã lâm trọng bệnh mà chết, để lại đứa con nuôi của anh đã khôn lớn là Phương, cậu học sinh lớp 12A ban đêm đạp xích lô chở khách kiếm tiền nuôi các em vì bố mẹ chết sớm. Một lần cô giáo đi công tác về khuya trên sân ga gặp Phương - mới biết được hoàn cảnh của Phương. Về sau Phương trở thành một bác sĩ giỏi. Cô giáo cảm thấy hạnh phúc vì người học trò ngoan và giỏi của cô đã thành đạt. Do quan niệm hẹp hòi đố kỵ và thiển cận, những người lãnh đạo địa phương đã lên án bà Tính - một góa phụ vì chuyện quan hệ nam nữ, làm cho cô con gái độc nhất của bà là Nết cảm thấy xấu hổ nhục nhã, bỏ học, bỏ nhà trốn biệt tăm (Nết). Nhiều năm sau nhân vật "tôi" bạn thân của Nết ra sức đi tìm bạn mà không gặp. Khi đã có chồng con, công việc ổn định ở thành phố, một lần nghe bà Tính ốm nặng khó qua khỏi, "tôi" chuẩn bị về quê thăm bà, thì vừa lúc người môi giới dẫn đến cho "tôi" một người giúp việc. Thật hết sức bất ngờ, đó là Nết. Truyện kết thúc ở đây cho người đọc rộng đường suy nghĩ. Chắc chắn Nết sẽ trở thành một thành viên thân quý của gia đình "tôi", tình bạn giữa Nết và "tôi" sẽ còn thắm thiết hơn xưa, dẫu muộn "tôi" vẫn tạo điều kiện cho Nết đi học tiếp, và điều quan trọng hơn hết là mẹ của Nết được gặp mặt con gái lúc lâm chung.

Nhân - Lính trinh sát. Sau giải phóng tìm về quê mới biết mẹ già đã theo bà con đi kinh tế mới ở một tỉnh cao Nguyên Trung bộ (Ngọn lửa dương thế). Anh liềân đi tìm mẹ. Trên đường bị kẻ gian rạch ba lô lấy hết giấy tờ, tiền bạc và cả vé tàu. Mọi lời trần tình của anh lúc nầy không được một ai tin. Anh bị đẩy xuống tàu, đi bộ hàng tháng trời để tìm mẹ, đói khát phải xin ăn dọc đường, nhưng khi đến nơi anh chỉ được gặp ngôi mộ của mẹ với con chó mẹ nuôi đang nằm bên mộ chủ. Từ đó anh sống với con chó, ban đêm anh đốt lửa để sưởi ấm mộ mẹ và sưởi ấm luôn những ngôi mộ lân cận. Tin cậy anh, nhiều người thuê anh đốt lửa hàng đêm cho thân nhân họ trong nghĩa trang. Trước tình cảnh khốn cùng đó có một cô gái đem lòng yêu anh, cô dành dụm toàn bộ số tiền làm thuê tặng anh làm lộ phí trên đường tìm đơn vị cũ để xin lập lại giấy tờ đã mất.

"Khoảng trời - cánh bay" và "Những con thiêu thân" là hai truyện chững chạc nhất. Hà Giang - cô nữ sinh xinh đẹp của lớp 12A đầy ắp mơ ước (Khoảng trời - Cánh bay). Mỗi người chọn cho mình một ngành học, Hà Giang thì đỗ vào đại học sư phạm Khoa văn. Nam được chọn đi học lái máy bay ở nước ngoài. Nam và Hà Giang vẫn thư từ đều đặn cho nhau. Nam trở thành niềm tự hào của cả lớp 12A. Chàng phi công trẻ học xong trở về nước, về trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật để học lái một số loại máy bay mới. Cự ly giữa Nam và Hà Giang mãi vẫn chưa được thu nhỏ, dẫu cường độ có lớn mạnh"... ở trường đại học có bao chàng trai khỏe mạnh tài hoa trắng trẻo thư sinh nói giọng đô thành ngọt ngào như mật rót (...) Rồi bao nhiêu buổi sinh hoạt câu lạc bộ, dạ hội, những chuyến đi thực tập sư phạm... Có trời mà ngăn cản được tình yêu của họ" (T.105). Chàng phi công trẻ đã quyết gạt bỏ nỗi đau tình đơn phương khi cất cánh, như có lần anh đã nói cho Hà Giang biết những nguyên tắc bất di bất dịch của nghề lái máy bay, để Hà Giang có nhận thức đầy đủ rằng "Một phi công nào cũng bay lên từ mặt đất. Trên mặt đất lại có bao nhiêu mối quan hệ ràng rịt: gia đình, vợ con, người yêu, đồng đội... Chỉ một khúc mắc nào trong mối dây ấy đều nguy hiểm" (T.105). Hà Giang biết vậy nhưng cô không thể làm khác, còn anh thì nghĩ rằng anh chưa làm được gì cho Hà Giang cả, chính anh mới là người có lỗi. Suy cho cùng làm người lính bay thật hết sức cô đơn. "Khi cô đơn người ta có thể trở nên yếu đuối, nhưng cũng có thể trở nên mạnh mẽ hơn" (T.113). Và anh đã mạnh mẽ chiến thắng chính bản thân mình. Hôm nay cả phi đội anh bay. Dứt bỏ được gánh nặng tâm lý để tâm hồn thanh thản trước khi bay là một việc làm hết sức quan trọng. Bầu trời cao xanh lồng lộng trước mắt anh, phía dưới, biển quê hương đẹp vô cùng... Mạch văn duyên dáng trữ tình nhuần nhị của Lê Khánh Mai đã dẫn dắt tâm hồn người đọc theo những cánh bay với niềm yêu nghề tuyệt đối của các thế hệ phi công. Với khả năng quan sát nhạy bén Lê Khánh Mai đã miêu tả một thế giới đàn ông nát rượu mà trong đó Quờn và Hớn là hai nhân vật tiêu biểu (Những con thiêu thân). Họ là những con người hễ mở miệng ra là nói những lời khoa trương đại ngôn, nhưng họ chẳng làm nên chút tích sự gì, lại còn làm khổ nhiều người khác, làm khổ vợ con. Quờn làm thơ và Hớn giáo viên tiểu học, cả hai đều đông con và nghèo đến mức không thể nghèo hơn! "Ngày nào Quờn cũng đến quán rượu đọc thơ, ngả nghiêng khóc thương cả nhân loại lầm than (...)Đọc xong gã bốc một miếng dồi chó cuộn vào chiếc lá mơ, đưa lên miệng nhai ngóp nghép, nốc rượu đánh ực (...) gã ngả người trên chiếc ghế mây thở phì phì mãn nguyện như vừa hoàn thành một sứ mệnh cao cả. Lập tức năm, sáu ly rượu được nâng lên cụng vào nhau lắc cắc trăm phần trăm trong lời chúc tụng, những vẫn thơ thiên tài (...). Gã thương cả nhân loại mênh mông nhưng không đủ sức thương cái gia đình bé nhỏ của gã (...) vợ gã héo như một cái cây mới trồng chưa kịp bén rễ đã gặp cơn nắng lửa. Hai vợ chồng, năm đứa con, người đàn bà tần tảo lam lũ một cách nhẫn nhục với ý thức sâu sắc về thân phận làm vợ một gã thi sĩ gàn. Chị tin đó là định mệnh nên đành giơ đôi vai gầy guộc ra mà nhận lấy cái gánh trần gian (...) Từ ba giờ sáng lúc nhà thơ đang nghẹo cổ trên chiếu ngủ mùi chị đã lọ mọ dậy nhóm lò nấu bún riêu cua gánh ra đầu hẻm bán... (T.119) Thật là một bức tranh tả thực vô cùng sinh động! Làm được mấy bài thơ, được một tờ báo tỉnh lẻ đăng, hoặc xuất bản được một tập thơ:"...nhưng nó lọt thỏm vào cái vô tận của rừng thơ thời mở cửa" (T.117), đã tự cho mình là văn nghệ sĩ, và đã là văn nghệ sĩ thì phải sống khác người, có quyền sống khác người(!), lúc nào cũng dở giọng triết gia (dẫu học hành chưa đến đâu, nhiều khi viết một câu mắc đến mấy lỗi chính tả!). Trong thế giới đó còn có những người như Hớn. Họ kết với nhau vì “một người thích khoe thơ, còn người kia ưa khen nịnh” (T.112). Bức tranh tả thực nầy càng sinh động hơn khi Lê Khánh Mai khắc họa Hớn "Hằng đêm trở về nhà sau cuộc rượu gã co chân đạp cánh cổng đánh rầm. Đó là tín hiệu quen thuộc mà dẫu vợ y có đau ốm liệt giường cũng cố lết dậy mở cửa cho y. Vừa vào đến nhà y đổ cái cây thịt xuống sàn nhà, miệng lầu bầu: Con mẹ mày! Dọn cơm cho ông!(...) Hớn khua khoắng trong mâm như lão mù khua gậy làm thức ăn rơi vãi tùm lum(...) Hôm sau Hớn tỉnh dậy soi gương, chải tóc, áo bỏ trong quần, thắt lưng nghiêm chỉnh đến trường trong vai thầy giáo. Trưa về, vứt cái cặp vào xó giường, y khoan thai bước vào quán rượu. Dọc đường gặp ai y cũng cười, nụ cười hiền lành và tử tế" (T.124) Qua truyện ngắn này, Lê Khánh Mai tỏ ra có sở trường tả thực "Những con thiêu thân" là một bức tranh miêu tả những con người tự đốt cháy cuộc đời mình bằng sự xơ cứng, trơ lì, vô trách nhiệm, bằng ảo tưởng, và bằng rượu!

Nổi bật hơn hết là những nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Khánh Mai, người nào cũng dịu dàng, xinh đẹp, hết lòng vì người khác, hy sinh, chịu thương chịu khó, đó là Thảo trong "Ngọn lửa dương thế”, Điệp trong "Chuyện tình 20 năm", Hà trong "Đáp số hạnh phúc", vợ của Hớn, vợ của Qườn trong "Những con thiêu thân" Miên trong "Cánh buồm trên biển". Ngoài đề tài xã hội, sự am hiểm sâu sắc về quân đội và ngành giáo dục đã giúp Lê Khánh Mai thành công các truyện "Khoảng trời cánh bay", "Chuyện tình 20 năm", "Ngọn lửa dương thế", "Chuyện đời thường"... Tác giả thương những cuộc đời oan khuất như Nhân (Ngọn lửa dương thế), trân trọng những con người âm thầm lao động miệt mài như Phương (Chuyện đời thường) như Đông (Cánh buồm trên biển), thông cảm sẻ chia với những phụ nữ bất hạnh vì chồng vì con như vợ Qườn, vợ Hớn (Những con thiêu thân). Kết thúc là một chuyện tình thật đẹp (Cánh buồm trên biển). Những tình yêu đẹp, thơ mộng kiểu như vậy đã góp phần làm tươi mát cho tập truyện. Tuy nhiên, ở một vài chỗ Lê Khánh Mai có nhược điểm về ngôn ngữ đối thoại. Giá như "Ngọn lửa dương thế" được trau chuốt ngôn ngữ hơn thì truyện còn thành công hơn nữa. Thảo là một cô gái xuất thân mồ côi, không biết cha mẹ mình là ai, trở thành trẻ bụi đời, tội phạm, khi hoàn lương cô làm nghề bán than, lam lũ, nhưng khi nói chuyện với Nhân ngôn ngữ của cô quá bác học! Hoặc nhân vật Nhung (Tiếng gọi phía ngôi trường) trước khi trở thành cô giáo đã từng là thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhung có một quá khứ đẹp như vậy nhưng người đọc không thể yêu mến Nhung, bởi cung cách nói năng, phương thức tiếp cận của Nhung xơ cứng thô thiển và... có chút gì khoe thành tích(!)

Lê Khánh Mai đã có nhiều tập thơ hay, một tập tiểu thuyết và đây là tập truyện ngắn đầu tay của chị. Cây bút thơ này tỏ ra năng nổ tháo vát trên những trang văn xuôi giàu cảm xúc và hàm súc ý tưởng. Chúc chị thành công hơn nữa trong làng văn xuôi với những tác phẩm mới.

H.K.L
(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...