Truyện ngắn Lê Khánh Mai

08:44 10/04/2009
HÀ KHÁNH LINHViết được một câu thơ hay có khi phải chiêm nghiệm cả một đời người, hoàn thành một tập truyện, một tập thơ là sự chắt chiu miệt mài suốt cả quá trình, sau Đại hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII Lê Khánh Mai liên tiếp trình làng tập thơ "Đẹp buồn và trong suốt như gương" (Nhà xuất bản Hội Nhà văn) và "Nết" tập truyện ngắn (Nhà xuất bản Đà Nẵng).

Nếu thơ Lê Khánh Mai đằm thắm, sâu thẳm, đầy chất men say và đầy trí tuệ, thì truyện ngắn Lê Khánh Mai giản dị chân thật nhưng duyên dáng, ý nhị, tỉ mẩn "Nết" là truyện ngắn mang tên chung cho toàn tập có 9 truyện, với 172 trang sách - Lê Khánh Mai đã dẫn dắt người đọc vào những mảnh đời, những tình huống cùng những ngóc ngách tâm lý bí ẩn của các nhân vật mà ta có thể bắt gặp chung quanh mình trong cuộc sống đời thường. Là Hạnh - Trung tá cựu chiến binh (Chuyện tình 20 năm) một thời lái xe tăng, anh đã nhặt được một bé gái bên xác người mẹ bị xe tăng địch nghiến chết trong cuộc rút chạy khi ta mở chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh bị khiển trách, bị giáng cấp, bởi vi phạm kỷ luật trong lúc làm nhiệm vụ mà cưu mang một đứa trẻ. Về sau có người góa phụ trẻ cảm vì nghĩa cử cao đẹp của anh nên đem lòng yêu anh, rồi cưu mang đứa bé giúp anh khi anh đi chiến trường K. Đời lính nay đây mai đó, cùng với những nguyên tắc của tổ chức, anh cứ lận đận mãi đến khi có điều kiện xây dựng gia đình thì người thiếu phụ đợi chờ anh mỏi mòn đã lâm trọng bệnh mà chết, để lại đứa con nuôi của anh đã khôn lớn là Phương, cậu học sinh lớp 12A ban đêm đạp xích lô chở khách kiếm tiền nuôi các em vì bố mẹ chết sớm. Một lần cô giáo đi công tác về khuya trên sân ga gặp Phương - mới biết được hoàn cảnh của Phương. Về sau Phương trở thành một bác sĩ giỏi. Cô giáo cảm thấy hạnh phúc vì người học trò ngoan và giỏi của cô đã thành đạt. Do quan niệm hẹp hòi đố kỵ và thiển cận, những người lãnh đạo địa phương đã lên án bà Tính - một góa phụ vì chuyện quan hệ nam nữ, làm cho cô con gái độc nhất của bà là Nết cảm thấy xấu hổ nhục nhã, bỏ học, bỏ nhà trốn biệt tăm (Nết). Nhiều năm sau nhân vật "tôi" bạn thân của Nết ra sức đi tìm bạn mà không gặp. Khi đã có chồng con, công việc ổn định ở thành phố, một lần nghe bà Tính ốm nặng khó qua khỏi, "tôi" chuẩn bị về quê thăm bà, thì vừa lúc người môi giới dẫn đến cho "tôi" một người giúp việc. Thật hết sức bất ngờ, đó là Nết. Truyện kết thúc ở đây cho người đọc rộng đường suy nghĩ. Chắc chắn Nết sẽ trở thành một thành viên thân quý của gia đình "tôi", tình bạn giữa Nết và "tôi" sẽ còn thắm thiết hơn xưa, dẫu muộn "tôi" vẫn tạo điều kiện cho Nết đi học tiếp, và điều quan trọng hơn hết là mẹ của Nết được gặp mặt con gái lúc lâm chung.

Nhân - Lính trinh sát. Sau giải phóng tìm về quê mới biết mẹ già đã theo bà con đi kinh tế mới ở một tỉnh cao Nguyên Trung bộ (Ngọn lửa dương thế). Anh liềân đi tìm mẹ. Trên đường bị kẻ gian rạch ba lô lấy hết giấy tờ, tiền bạc và cả vé tàu. Mọi lời trần tình của anh lúc nầy không được một ai tin. Anh bị đẩy xuống tàu, đi bộ hàng tháng trời để tìm mẹ, đói khát phải xin ăn dọc đường, nhưng khi đến nơi anh chỉ được gặp ngôi mộ của mẹ với con chó mẹ nuôi đang nằm bên mộ chủ. Từ đó anh sống với con chó, ban đêm anh đốt lửa để sưởi ấm mộ mẹ và sưởi ấm luôn những ngôi mộ lân cận. Tin cậy anh, nhiều người thuê anh đốt lửa hàng đêm cho thân nhân họ trong nghĩa trang. Trước tình cảnh khốn cùng đó có một cô gái đem lòng yêu anh, cô dành dụm toàn bộ số tiền làm thuê tặng anh làm lộ phí trên đường tìm đơn vị cũ để xin lập lại giấy tờ đã mất.

"Khoảng trời - cánh bay" và "Những con thiêu thân" là hai truyện chững chạc nhất. Hà Giang - cô nữ sinh xinh đẹp của lớp 12A đầy ắp mơ ước (Khoảng trời - Cánh bay). Mỗi người chọn cho mình một ngành học, Hà Giang thì đỗ vào đại học sư phạm Khoa văn. Nam được chọn đi học lái máy bay ở nước ngoài. Nam và Hà Giang vẫn thư từ đều đặn cho nhau. Nam trở thành niềm tự hào của cả lớp 12A. Chàng phi công trẻ học xong trở về nước, về trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật để học lái một số loại máy bay mới. Cự ly giữa Nam và Hà Giang mãi vẫn chưa được thu nhỏ, dẫu cường độ có lớn mạnh"... ở trường đại học có bao chàng trai khỏe mạnh tài hoa trắng trẻo thư sinh nói giọng đô thành ngọt ngào như mật rót (...) Rồi bao nhiêu buổi sinh hoạt câu lạc bộ, dạ hội, những chuyến đi thực tập sư phạm... Có trời mà ngăn cản được tình yêu của họ" (T.105). Chàng phi công trẻ đã quyết gạt bỏ nỗi đau tình đơn phương khi cất cánh, như có lần anh đã nói cho Hà Giang biết những nguyên tắc bất di bất dịch của nghề lái máy bay, để Hà Giang có nhận thức đầy đủ rằng "Một phi công nào cũng bay lên từ mặt đất. Trên mặt đất lại có bao nhiêu mối quan hệ ràng rịt: gia đình, vợ con, người yêu, đồng đội... Chỉ một khúc mắc nào trong mối dây ấy đều nguy hiểm" (T.105). Hà Giang biết vậy nhưng cô không thể làm khác, còn anh thì nghĩ rằng anh chưa làm được gì cho Hà Giang cả, chính anh mới là người có lỗi. Suy cho cùng làm người lính bay thật hết sức cô đơn. "Khi cô đơn người ta có thể trở nên yếu đuối, nhưng cũng có thể trở nên mạnh mẽ hơn" (T.113). Và anh đã mạnh mẽ chiến thắng chính bản thân mình. Hôm nay cả phi đội anh bay. Dứt bỏ được gánh nặng tâm lý để tâm hồn thanh thản trước khi bay là một việc làm hết sức quan trọng. Bầu trời cao xanh lồng lộng trước mắt anh, phía dưới, biển quê hương đẹp vô cùng... Mạch văn duyên dáng trữ tình nhuần nhị của Lê Khánh Mai đã dẫn dắt tâm hồn người đọc theo những cánh bay với niềm yêu nghề tuyệt đối của các thế hệ phi công. Với khả năng quan sát nhạy bén Lê Khánh Mai đã miêu tả một thế giới đàn ông nát rượu mà trong đó Quờn và Hớn là hai nhân vật tiêu biểu (Những con thiêu thân). Họ là những con người hễ mở miệng ra là nói những lời khoa trương đại ngôn, nhưng họ chẳng làm nên chút tích sự gì, lại còn làm khổ nhiều người khác, làm khổ vợ con. Quờn làm thơ và Hớn giáo viên tiểu học, cả hai đều đông con và nghèo đến mức không thể nghèo hơn! "Ngày nào Quờn cũng đến quán rượu đọc thơ, ngả nghiêng khóc thương cả nhân loại lầm than (...)Đọc xong gã bốc một miếng dồi chó cuộn vào chiếc lá mơ, đưa lên miệng nhai ngóp nghép, nốc rượu đánh ực (...) gã ngả người trên chiếc ghế mây thở phì phì mãn nguyện như vừa hoàn thành một sứ mệnh cao cả. Lập tức năm, sáu ly rượu được nâng lên cụng vào nhau lắc cắc trăm phần trăm trong lời chúc tụng, những vẫn thơ thiên tài (...). Gã thương cả nhân loại mênh mông nhưng không đủ sức thương cái gia đình bé nhỏ của gã (...) vợ gã héo như một cái cây mới trồng chưa kịp bén rễ đã gặp cơn nắng lửa. Hai vợ chồng, năm đứa con, người đàn bà tần tảo lam lũ một cách nhẫn nhục với ý thức sâu sắc về thân phận làm vợ một gã thi sĩ gàn. Chị tin đó là định mệnh nên đành giơ đôi vai gầy guộc ra mà nhận lấy cái gánh trần gian (...) Từ ba giờ sáng lúc nhà thơ đang nghẹo cổ trên chiếu ngủ mùi chị đã lọ mọ dậy nhóm lò nấu bún riêu cua gánh ra đầu hẻm bán... (T.119) Thật là một bức tranh tả thực vô cùng sinh động! Làm được mấy bài thơ, được một tờ báo tỉnh lẻ đăng, hoặc xuất bản được một tập thơ:"...nhưng nó lọt thỏm vào cái vô tận của rừng thơ thời mở cửa" (T.117), đã tự cho mình là văn nghệ sĩ, và đã là văn nghệ sĩ thì phải sống khác người, có quyền sống khác người(!), lúc nào cũng dở giọng triết gia (dẫu học hành chưa đến đâu, nhiều khi viết một câu mắc đến mấy lỗi chính tả!). Trong thế giới đó còn có những người như Hớn. Họ kết với nhau vì “một người thích khoe thơ, còn người kia ưa khen nịnh” (T.112). Bức tranh tả thực nầy càng sinh động hơn khi Lê Khánh Mai khắc họa Hớn "Hằng đêm trở về nhà sau cuộc rượu gã co chân đạp cánh cổng đánh rầm. Đó là tín hiệu quen thuộc mà dẫu vợ y có đau ốm liệt giường cũng cố lết dậy mở cửa cho y. Vừa vào đến nhà y đổ cái cây thịt xuống sàn nhà, miệng lầu bầu: Con mẹ mày! Dọn cơm cho ông!(...) Hớn khua khoắng trong mâm như lão mù khua gậy làm thức ăn rơi vãi tùm lum(...) Hôm sau Hớn tỉnh dậy soi gương, chải tóc, áo bỏ trong quần, thắt lưng nghiêm chỉnh đến trường trong vai thầy giáo. Trưa về, vứt cái cặp vào xó giường, y khoan thai bước vào quán rượu. Dọc đường gặp ai y cũng cười, nụ cười hiền lành và tử tế" (T.124) Qua truyện ngắn này, Lê Khánh Mai tỏ ra có sở trường tả thực "Những con thiêu thân" là một bức tranh miêu tả những con người tự đốt cháy cuộc đời mình bằng sự xơ cứng, trơ lì, vô trách nhiệm, bằng ảo tưởng, và bằng rượu!

Nổi bật hơn hết là những nhân vật nữ trong truyện ngắn Lê Khánh Mai, người nào cũng dịu dàng, xinh đẹp, hết lòng vì người khác, hy sinh, chịu thương chịu khó, đó là Thảo trong "Ngọn lửa dương thế”, Điệp trong "Chuyện tình 20 năm", Hà trong "Đáp số hạnh phúc", vợ của Hớn, vợ của Qườn trong "Những con thiêu thân" Miên trong "Cánh buồm trên biển". Ngoài đề tài xã hội, sự am hiểm sâu sắc về quân đội và ngành giáo dục đã giúp Lê Khánh Mai thành công các truyện "Khoảng trời cánh bay", "Chuyện tình 20 năm", "Ngọn lửa dương thế", "Chuyện đời thường"... Tác giả thương những cuộc đời oan khuất như Nhân (Ngọn lửa dương thế), trân trọng những con người âm thầm lao động miệt mài như Phương (Chuyện đời thường) như Đông (Cánh buồm trên biển), thông cảm sẻ chia với những phụ nữ bất hạnh vì chồng vì con như vợ Qườn, vợ Hớn (Những con thiêu thân). Kết thúc là một chuyện tình thật đẹp (Cánh buồm trên biển). Những tình yêu đẹp, thơ mộng kiểu như vậy đã góp phần làm tươi mát cho tập truyện. Tuy nhiên, ở một vài chỗ Lê Khánh Mai có nhược điểm về ngôn ngữ đối thoại. Giá như "Ngọn lửa dương thế" được trau chuốt ngôn ngữ hơn thì truyện còn thành công hơn nữa. Thảo là một cô gái xuất thân mồ côi, không biết cha mẹ mình là ai, trở thành trẻ bụi đời, tội phạm, khi hoàn lương cô làm nghề bán than, lam lũ, nhưng khi nói chuyện với Nhân ngôn ngữ của cô quá bác học! Hoặc nhân vật Nhung (Tiếng gọi phía ngôi trường) trước khi trở thành cô giáo đã từng là thanh niên xung phong trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhung có một quá khứ đẹp như vậy nhưng người đọc không thể yêu mến Nhung, bởi cung cách nói năng, phương thức tiếp cận của Nhung xơ cứng thô thiển và... có chút gì khoe thành tích(!)

Lê Khánh Mai đã có nhiều tập thơ hay, một tập tiểu thuyết và đây là tập truyện ngắn đầu tay của chị. Cây bút thơ này tỏ ra năng nổ tháo vát trên những trang văn xuôi giàu cảm xúc và hàm súc ý tưởng. Chúc chị thành công hơn nữa trong làng văn xuôi với những tác phẩm mới.

H.K.L
(200/10-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.

  • NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH

    Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.