Hòa Vang - Luân Lâm - Dương Thành Vũ
Tranh thủy mặc của Trương Hán Minh
HÒA VANG
Chim sứ
Mãi rồi, những con cò không bay về Bang Cò Lả nữa... Những cánh Hiếu Diễu không bay về Cù lao Hòa Bình - trong một công viên đổi tên đã hơn một lần - nữa... Tôi nhớ, thèm, rồi khát được nghe một tiếng chim. Tiếng chim hót, rúc, gù, hay một chút chiêm chiếp thôi cũng được. Nỗi khát thèm như lửa, như tôi uống nhầm phải nước thuốc pháo xiết, nạo, bào cháy lòng tôi.
Thì một thằng đàn em - lính trong tiểu đội xưa - đến. Nó dốc ngược túi dết, đổ ra cả một đống chim sẻ, đầy một rá vo gạo kim loại của vợ tôi. Những tua lông tơ dinh dính những vệt máu còn độ nhễu, thắm tươi. Nó cười hê hê, dạy vợ tôi vặt lông, và bảo tôi: "Sọ chim sẻ ròn hết tầm sông núi. Óc chim sẻ lợi cho sự viết văn, cho thứ thần kinh lấy đêm làm ngày của anh lắm đấy! Nhá tới đi... bố ạ!
Tôi thấy vợ tôi hoan hỉ, trẻ ra đến 5, 6 tuổi, tay đầy lông chim, thoăn thoát đổ can dầu ôliu vào chảo nóng. Và những con chim trần trụi ròn lên dần. Không thể khác, tôi nhá thật lực. Thấy khỏe ra, sáng mắt, sáng lòng thật lực.
Đêm. Không thể ngủ. Thằng viết văn nào đang thấy mình khỏe mà lại ngủ? Nảy ý sáng chói: "Ôi! Nếu muốn nghe tiếng chim - thì phải đi theo nó - theo cái thằng bắn chim đàn em ấy". Hãy đi! Hãy làm thằng giữ đạn và giữ xe máy cho nó, ắt sẽ được nghe đủ đầy cả tiếng chim vô tư trước khi nó bắn, cả tiếng chim táo tác hoảng loạn sau khi súng nổ.
Thế là tôi đi theo nó. Và quả hai bên tai tôi đã được tràn ứ những tiếng chim... Nhưng rồi nó đi xa nữa quá. Phận tôi, thê trốc, tử phọc, không thể với theo mãi. Đành ở nhà…
Thì hôm nay, nó đến. Súng quàng vai, không một con chim. Nó bảo: "Đang buồn. Như là hết mẹ nó các con chim có thể bắn được rồi".
Tôi ngước lên, ngậm ngùi, nịnh bợ như ánh mắt một con chó, mong nó đi để mình còn làm việc...
Thì một tiếng chim rúc lên. Ròn rã, lanh lảnh, đầy nhạc cảm. Thằng nọ giật lấy súng, phăm phăm chạy ra mé sau tường nhà tôi - phố Thợ Ngôi - vốn chỉ đầy tiếng kéo cắt tóc tanh tách. Tiếng chim vẫn ròn rã, lảnh lót vang lên. Nó dừng lại, chỉnh súng rồi. Nòng súng chạy ngang, chạy thẳng vào tiếng hót. Tôi nhìn theo, thấy mút đầu ruồi khe ngắm là một... đôi môi. Đôi môi khô nẻ, nhiều nếp, nhăn nhúm nữa... của một bà già đang chúm môi, rán sức thổi vào cái ống đuôi một con chim bằng sứ.
- Mẹ kiếp. Người chứ không phải là chim. Lại còn già nữa chứ! - Nó văng tục, nhổ nước bọt, hạ súng xuống, liếm mép.
Nhưng bên vỉa hè kia, bà già vọt dậy rồi, hoảng loạn khi thấy một nòng súng chĩa thẳng vào mình. Bà chạy, vứt con chim đang thổi trên miệng xuống rãnh, và dẫm lên cả một mẹt chim sứ nữa đang ngu ngơ chưa được áp môi ai một lần, để được rúc lên tiếng chim ròn rã, một khi trong khoảng bụng rỗng đã được đổ chút nước lã.
Bàn chân bà già xéo vỡ cả một mẹt chim sứ.
Những tiếng sứ vỡ ấy, tôi nghe đằm thắm những tiếng chim, chiêm chiếp, chiêm chiếp... như sét đánh.
H.V
Bạch Chưởng Am
4-12-1991 - 13-6-1992
![]() |
LUÂN LÂM
Lễ thần
Con người thường nhìn chim quạ với ít nhiều ác ý. Quạ phá phách ngô, đậu, bắp. Quạ rửa thịt người chết... Riêng tôi có một kỷ niệm lạ kỳ về quạ, khiến cho tôi không thể nghĩ như người ta...
Đó là một ngày mùa thu trời khô ráo, nhưng chẳng biết sao, không mấy trong trẻo. Tôi lang thang trên dãy đồi cát sau lưng làng. Bỗng tôi thấy dưới chân rải rác có những hòn tròn, to cỡ quả bóng bàn, là lạ. Tôi nhìn quanh. Chẳng có gì đặc biệt. Cũng chẳng có ai, chỉ mình tôi với mênh mang vắng lặng. Tôi nhặt một hòn lên xem. Dễ dàng nhận thấy đó là một hòn đất trộn với phân bò. Lạ một điều là nó được vo rất khéo léo, bên trong rỗng, dĩ nhiên hai đầu có lỗ. Tôi bỏ đi, nghĩ bụng đó là sản phẩm của một trò chơi nào đó của các em chăn bò.
Mấy hôm sau, cũng một chiều lang thang như vậy, tôi sững ra trước một cảnh tượng lạ lùng. Một con quạ khoang như đang để tang cho ai đang đứng trước những hòn đất hôm nào tôi đã thấy. Hai chân quạ gần như ở tư thế nghiêm, mình bất động, riêng cái đầu hơi cúi thì gật lên gật xuống, mồm kêu khe khẽ: oạ, oạ, oạ... Lát sau, con quạ thôi cúng, bay đi. Còn tôi lần nữa lại nhặt một hòn đất lên xem. Lại vẫn là những hòn đất trộn với phân bò được khéo léo vo viên, lỗ thủng hai đầu bằng đầu đũa...
Hôm sau, phấp phỏng như có một điều gì hệ trọng sắp xảy ra, tôi lại lên đồi, đến chỗ cũ. Không thấy gì cả. Tôi rẽ theo một lối tắt, tiếp tục cuộc dạo chơi của mình với nỗi lòng nặng trĩu. Thì kìa, cạnh một lùm cây lúp xúp, một con quạ khoang - chắc hẳn là con quạ quen biết - đang dùng chân và mỏ dũi, vo đất. Tôi im re, nấp vào chỗ khuất. Thì ra, tác giả những chiếc "bánh ống" tuyệt vời kia không phải là ai khác. Lát sau, chừng như "bánh" đã đủ, con quạ ngẩng đầu lên, nhìn nghiêng ngó. Yên tâm vì xung quanh vẫn như tờ, quạ bèn rũ rũ cánh, quẹt quẹt mỏ, giẫm giẫm chân... như thể sửa sang lại quần áo người ngợm cho tử tế. Và cái cảnh lễ thần lại diễn ra lồ lộ trước mắt tôi. Có điều lần này, lễ nghiêm trang hơn, quy củ hơn, kéo dài hơn. Vậy là lần trước chỉ là bước tập dượt... Tôi tự kiềm chế lắm mới khỏi xô ra hoặc la thành tiếng.
Cúng xong, con quạ bay đi. Và tôi lần tới, rón rén như sợ kinh động đến khung cảnh thiêng liêng vừa rồi. Dưới gốc cây có tán rậm dày đứng hơi tách ra với đồng loại một chút, trên một gò đất cao hơn xung quanh, có một lớp địa y đã xám khô tròn bằng chiếc đĩa lớn. Tôi lấy que gạt lớp địa y một cách vừa ý thức vừa vô thức. Trời ơi, một “kho” lạc hiện ra. Những củ lạc chắc, khô giòn như vừa lấy từ sân phơi vào. Bấy giờ đang là mùa thu, nghĩa là mùa thu hoạch lạc qua đã lâu. Vậy mà... Tôi nhón một củ lạc đưa lên xem. Hoàn toàn là một củ lạc thật, chẳng có dấu hiệu gì để nghi ngờ. Tôi bóc vỏ lạc. Lập tức, hai cái nhân hồng hồng, óng mẩy đập vào mắt. Tôi bỏ vào mồm. Mùi lạc nhân thơm, béo ngậy...
Bây giờ tôi đã hiểu. Lễ cúng thần giữ kho của chim quạ. Sự khôn ngoan hiếm thấy của quạ. Lòng thành kính khôn lường của nó... Chao ôi, cuộc sống của muôn loài…
1992
L.L
DƯƠNG THÀNH VŨ
Kẻ bán mình
Giống như cô gái già ế chồng ném khinh bạc vào đôi uyên ương hạnh phúc, tôi biết niềm kiêu hãnh của chị ẩn chứa nỗi bất hạnh nội tâm. Lúc hiểu được tấm chân tình của tôi, cái mặt nạ kiêu hãnh kia rơi xuống. Chị ôm mặt nức nở như đứa trẻ. Khi vơi bớt nỗi niềm u uất, chị tâm sự:
- Tôi lấy ông ta vì tiền. Vâng, chỉ vì tiền. Đã là con người mấy ai thoát khỏi sự cám dỗ của danh lợi phải không cô? Mỗi chúng ta đều phải chịu ít nhiều điếm nhục ở đời, phải không nào? Chứ không phải những gã đàn ông, những mụ đàn bà dâm loạn phản trắc đã khỏa lấp hành vi ngoại tình của mình bằng một mớ triết lý rẻ tiền đó sao? Tôi đã sống với niềm tin về sự bất toàn của kiếp người như thế. Nhưng rồi "gieo gió thì gặt bão", có một kẻ tàn nhẫn đã nói thẳng mặt tôi: "Bà tưởng bà cao quý chắc? Thưa bà, việc bán dâm cho một người có khác gì với cái sự bán dâm cho nhiều người? Ả điếm quý tộc về bản chất có khác gì con điếm mạt hạng? Bà ngủ với ông nhà đơn thuần vì túi tiền của ông ấy, phải không?". Bao nhiêu hạt mầm thiện lương tôi gieo trồng, bằng ảo tưởng cũng có mà bằng khát vọng đẹp cũng có, tan như bong bóng xà phòng. Từ đó tôi thích làm cho người khác cay đắng nhục nhã, đó cũng là phương cách tôi tự nâng cao và khẳng định phẩm giá của mình.
- Và cuối cùng chị khám phá ra sự "khẳng định phẩm giá" ấy, rốt ráo, chỉ mang đến cho chính chị thêm nhiều cay đắng?...
- Vâng - Chị lại gục mặt trong lòng bàn tay và khóc.
Tôi im lặng. Biết đâu tôi cũng đã bán mình từ lúc nào rồi.
D.T.V
(TCSH52/11&12-1992)
Chúng tôi tìm được địa điểm chốt quân khá lý tưởng. Đấy là chiếc hang đá ở lưng triền núi; hang cao rộng vừa lõm sâu vào vách núi. Cửa hang được chắn bởi tảng đá khổng lồ, rất kiên cố; dù máy bay Mỹ có phát hiện thấy cửa hang mà phóng rốc két, đánh bom tấn thì người ở trong hang vẫn chẳng hề gì! B52 có rải thảm bom thì lại càng không ăn thua.
Sau khi dọn bàn ghế xong, bà Lan chọn chiếc bàn kê sát ngoài cửa ngồi trang điểm. Từ ngày mở quán, bà đâm ra có thói quen ngồi trang điểm như thế, vừa tiện việc mời chào khách, vừa có đủ ánh sáng đầu ngày.
Chiếc váy của Tuyl Cleng va quệt không ngớt vào mấy vạt cỏ hai bên vệ đường. Những chỉ hoa văn ở riềm váy trông như hai cánh tay chạy như bay xuống đồi. Cuốn vở học trên tay cô nhịp nhàng lên xuống như chiếc quạt diễn viên múa. Mùa xuân sắp đến, trời đất như rộng rinh thêm. Những con chim trao trảo, chèo bẻo, ta li eo... cũng hót vang bên rặng rừng, vui lây theo nỗi vui của Tuyl Cleng.
Ven Hồ Gươm ở phía lề đường bên phải, cách chân tượng vua Lê Thái Tổ ước ngoài trăm mét, luôn có một bồ đoàn. Bồ đoàn là chừng dăm tấm thảm Tầu rải sàn nhập lậu từ các tỉnh phía Bắc được các gia đình Hà Nội trung lưu ưa dùng.
1Sau lần đi gặt thuê cho đồng bào dân tộc ở Vĩnh Thạnh về, tôi bị trận sốt rét nặng. Dai dẳng trở đi trở lại gần ba tháng mới khỏi. Những ngày sau đó, trong người thấy cứ nôn nao, bứt rứt.
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.
Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rổ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Nó tỉnh dậy. Sương lành lạnh, thời tiết thật khắc nghiệt, ban ngày trời nắng như thiêu như đốt. Khẽ co ngón tay, một cảm giác đau buốt suốt từ đỉnh ngón chạy vào tim, xương sống như có luồng điện chạy qua. lạnh toát.
Chuyện kể rằng ở xóm Đồng có một gia đình hiếm con lắm, chữa mãi đến năm chồng 45 tuổi, vợ 40 tuổi mới có mang.