Truyện cực ngắn

09:40 01/04/2022


Hòa Vang - Luân Lâm - Dương Thành Vũ

Tranh thủy mặc của Trương Hán Minh

HÒA VANG


Chim sứ


Mãi rồi, những con cò không bay về Bang Cò Lả nữa... Những cánh Hiếu Diễu không bay về Cù lao Hòa Bình - trong một công viên đổi tên đã hơn một lần - nữa... Tôi nhớ, thèm, rồi khát được nghe một tiếng chim. Tiếng chim hót, rúc, gù, hay một chút chiêm chiếp thôi cũng được. Nỗi khát thèm như lửa, như tôi uống nhầm phải nước thuốc pháo xiết, nạo, bào cháy lòng tôi.

Thì một thằng đàn em - lính trong tiểu đội xưa - đến. Nó dốc ngược túi dết, đổ ra cả một đống chim sẻ, đầy một rá vo gạo kim loại của vợ tôi. Những tua lông tơ dinh dính những vệt máu còn độ nhễu, thắm tươi. Nó cười hê hê, dạy vợ tôi vặt lông, và bảo tôi: "Sọ chim sẻ ròn hết tầm sông núi. Óc chim sẻ lợi cho sự viết văn, cho thứ thần kinh lấy đêm làm ngày của anh lắm đấy! Nhá tới đi... bố ạ!

Tôi thấy vợ tôi hoan hỉ, trẻ ra đến 5, 6 tuổi, tay đầy lông chim, thoăn thoát đổ can dầu ôliu vào chảo nóng. Và những con chim trần trụi ròn lên dần. Không thể khác, tôi nhá thật lực. Thấy khỏe ra, sáng mắt, sáng lòng thật lực.

Đêm. Không thể ngủ. Thằng viết văn nào đang thấy mình khỏe mà lại ngủ? Nảy ý sáng chói: "Ôi! Nếu muốn nghe tiếng chim - thì phải đi theo nó - theo cái thằng bắn chim đàn em ấy". Hãy đi! Hãy làm thằng giữ đạn và giữ xe máy cho nó, ắt sẽ được nghe đủ đầy cả tiếng chim vô tư trước khi nó bắn, cả tiếng chim táo tác hoảng loạn sau khi súng nổ.

Thế là tôi đi theo nó. Và quả hai bên tai tôi đã được tràn ứ những tiếng chim... Nhưng rồi nó đi xa nữa quá. Phận tôi, thê trốc, tử phọc, không thể với theo mãi. Đành ở nhà…

Thì hôm nay, nó đến. Súng quàng vai, không một con chim. Nó bảo: "Đang buồn. Như là hết mẹ nó các con chim có thể bắn được rồi".

Tôi ngước lên, ngậm ngùi, nịnh bợ như ánh mắt một con chó, mong nó đi để mình còn làm việc...

Thì một tiếng chim rúc lên. Ròn rã, lanh lảnh, đầy nhạc cảm. Thằng nọ giật lấy súng, phăm phăm chạy ra mé sau tường nhà tôi - phố Thợ Ngôi - vốn chỉ đầy tiếng kéo cắt tóc tanh tách. Tiếng chim vẫn ròn rã, lảnh lót vang lên. Nó dừng lại, chỉnh súng rồi. Nòng súng chạy ngang, chạy thẳng vào tiếng hót. Tôi nhìn theo, thấy mút đầu ruồi khe ngắm là một... đôi môi. Đôi môi khô nẻ, nhiều nếp, nhăn nhúm nữa... của một bà già đang chúm môi, rán sức thổi vào cái ống đuôi một con chim bằng sứ.

- Mẹ kiếp. Người chứ không phải là chim. Lại còn già nữa chứ! - Nó văng tục, nhổ nước bọt, hạ súng xuống, liếm mép.

Nhưng bên vỉa hè kia, bà già vọt dậy rồi, hoảng loạn khi thấy một nòng súng chĩa thẳng vào mình. Bà chạy, vứt con chim đang thổi trên miệng xuống rãnh, và dẫm lên cả một mẹt chim sứ nữa đang ngu ngơ chưa được áp môi ai một lần, để được rúc lên tiếng chim ròn rã, một khi trong khoảng bụng rỗng đã được đổ chút nước lã.

Bàn chân bà già xéo vỡ cả một mẹt chim sứ.

Những tiếng sứ vỡ ấy, tôi nghe đằm thắm những tiếng chim, chiêm chiếp, chiêm chiếp... như sét đánh.

H.V
Bạch Chưởng Am
4-12-1991 - 13-6-1992


LUÂN LÂM


Lễ thần


Con người thường nhìn chim quạ với ít nhiều ác ý. Quạ phá phách ngô, đậu, bắp. Quạ rửa thịt người chết... Riêng tôi có một kỷ niệm lạ kỳ về quạ, khiến cho tôi không thể nghĩ như người ta...

Đó là một ngày mùa thu trời khô ráo, nhưng chẳng biết sao, không mấy trong trẻo. Tôi lang thang trên dãy đồi cát sau lưng làng. Bỗng tôi thấy dưới chân rải rác có những hòn tròn, to cỡ quả bóng bàn, là lạ. Tôi nhìn quanh. Chẳng có gì đặc biệt. Cũng chẳng có ai, chỉ mình tôi với mênh mang vắng lặng. Tôi nhặt một hòn lên xem. Dễ dàng nhận thấy đó là một hòn đất trộn với phân bò. Lạ một điều là nó được vo rất khéo léo, bên trong rỗng, dĩ nhiên hai đầu có lỗ. Tôi bỏ đi, nghĩ bụng đó là sản phẩm của một trò chơi nào đó của các em chăn bò.

Mấy hôm sau, cũng một chiều lang thang như vậy, tôi sững ra trước một cảnh tượng lạ lùng. Một con quạ khoang như đang để tang cho ai đang đứng trước những hòn đất hôm nào tôi đã thấy. Hai chân quạ gần như ở tư thế nghiêm, mình bất động, riêng cái đầu hơi cúi thì gật lên gật xuống, mồm kêu khe khẽ: oạ, oạ, oạ... Lát sau, con quạ thôi cúng, bay đi. Còn tôi lần nữa lại nhặt một hòn đất lên xem. Lại vẫn là những hòn đất trộn với phân bò được khéo léo vo viên, lỗ thủng hai đầu bằng đầu đũa...

Hôm sau, phấp phỏng như có một điều gì hệ trọng sắp xảy ra, tôi lại lên đồi, đến chỗ cũ. Không thấy gì cả. Tôi rẽ theo một lối tắt, tiếp tục cuộc dạo chơi của mình với nỗi lòng nặng trĩu. Thì kìa, cạnh một lùm cây lúp xúp, một con quạ khoang - chắc hẳn là con quạ quen biết - đang dùng chân và mỏ dũi, vo đất. Tôi im re, nấp vào chỗ khuất. Thì ra, tác giả những chiếc "bánh ống" tuyệt vời kia không phải là ai khác. Lát sau, chừng như "bánh" đã đủ, con quạ ngẩng đầu lên, nhìn nghiêng ngó. Yên tâm vì xung quanh vẫn như tờ, quạ bèn rũ rũ cánh, quẹt quẹt mỏ, giẫm giẫm chân... như thể sửa sang lại quần áo người ngợm cho tử tế. Và cái cảnh lễ thần lại diễn ra lồ lộ trước mắt tôi. Có điều lần này, lễ nghiêm trang hơn, quy củ hơn, kéo dài hơn. Vậy là lần trước chỉ là bước tập dượt... Tôi tự kiềm chế lắm mới khỏi xô ra hoặc la thành tiếng.

Cúng xong, con quạ bay đi. Và tôi lần tới, rón rén như sợ kinh động đến khung cảnh thiêng liêng vừa rồi. Dưới gốc cây có tán rậm dày đứng hơi tách ra với đồng loại một chút, trên một gò đất cao hơn xung quanh, có một lớp địa y đã xám khô tròn bằng chiếc đĩa lớn. Tôi lấy que gạt lớp địa y một cách vừa ý thức vừa vô thức. Trời ơi, một “kho” lạc hiện ra. Những củ lạc chắc, khô giòn như vừa lấy từ sân phơi vào. Bấy giờ đang là mùa thu, nghĩa là mùa thu hoạch lạc qua đã lâu. Vậy mà... Tôi nhón một củ lạc đưa lên xem. Hoàn toàn là một củ lạc thật, chẳng có dấu hiệu gì để nghi ngờ. Tôi bóc vỏ lạc. Lập tức, hai cái nhân hồng hồng, óng mẩy đập vào mắt. Tôi bỏ vào mồm. Mùi lạc nhân thơm, béo ngậy...

Bây giờ tôi đã hiểu. Lễ cúng thần giữ kho của chim quạ. Sự khôn ngoan hiếm thấy của quạ. Lòng thành kính khôn lường của nó... Chao ôi, cuộc sống của muôn loài…

1992
L.L



DƯƠNG THÀNH VŨ


Kẻ bán mình


Giống như cô gái già ế chồng ném khinh bạc vào đôi uyên ương hạnh phúc, tôi biết niềm kiêu hãnh của chị ẩn chứa nỗi bất hạnh nội tâm. Lúc hiểu được tấm chân tình của tôi, cái mặt nạ kiêu hãnh kia rơi xuống. Chị ôm mặt nức nở như đứa trẻ. Khi vơi bớt nỗi niềm u uất, chị tâm sự:

- Tôi lấy ông ta vì tiền. Vâng, chỉ vì tiền. Đã là con người mấy ai thoát khỏi sự cám dỗ của danh lợi phải không cô? Mỗi chúng ta đều phải chịu ít nhiều điếm nhục ở đời, phải không nào? Chứ không phải những gã đàn ông, những mụ đàn bà dâm loạn phản trắc đã khỏa lấp hành vi ngoại tình của mình bằng một mớ triết lý rẻ tiền đó sao? Tôi đã sống với niềm tin về sự bất toàn của kiếp người như thế. Nhưng rồi "gieo gió thì gặt bão", có một kẻ tàn nhẫn đã nói thẳng mặt tôi: "Bà tưởng bà cao quý chắc? Thưa bà, việc bán dâm cho một người có khác gì với cái sự bán dâm cho nhiều người? Ả điếm quý tộc về bản chất có khác gì con điếm mạt hạng? Bà ngủ với ông nhà đơn thuần vì túi tiền của ông ấy, phải không?". Bao nhiêu hạt mầm thiện lương tôi gieo trồng, bằng ảo tưởng cũng có mà bằng khát vọng đẹp cũng có, tan như bong bóng xà phòng. Từ đó tôi thích làm cho người khác cay đắng nhục nhã, đó cũng là phương cách tôi tự nâng cao và khẳng định phẩm giá của mình.

- Và cuối cùng chị khám phá ra sự "khẳng định phẩm giá" ấy, rốt ráo, chỉ mang đến cho chính chị thêm nhiều cay đắng?...

- Vâng - Chị lại gục mặt trong lòng bàn tay và khóc.

Tôi im lặng. Biết đâu tôi cũng đã bán mình từ lúc nào rồi.

D.T.V
(TCSH52/11&12-1992)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.