Trương Vĩnh Tuấn - Nỗi đau đời của thi sĩ

15:32 16/04/2009
ĐINH NAM KHƯƠNG               (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao:                          “...Hình như hắn là nhà quê                          Hình như hắn từ quê ra...”                                                                (Gốc)

Thi sĩ Trương Vĩnh Tuấn

Vâng! “Hắn nhà quê” ấy chính là thi sĩ Trương Vĩnh Tuấn, mà trong bài viết này tôi cứ thích gọi ông là Tiên sinh.
Đọc “ru em ru tôi” thấy tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn đêm đêm thường trằn trọc thao thức với sao khuê! ông thức để làm thơ, thức để “ru em”, ru người tình. Thức để mở to mắt nhìn những trò đời bắng nhắng... rồi mỉm cười một mình vu vơ trong đêm tối!... Song, trên tất cả những điều ấy là thức với “thiên hạ”, thức vớichúng sinh”. Thức để ru mọi người tỉnh ngủ vì cuộc đời vẫn còn nhiều gian tham độc ác:
                        “... Một đêm thức với chúng sinh
                        Thì ra thiên hạ thái bình từ lâu
                        Nỏ thần chước quỷ, mưu sâu
                        Nỏ cần tất tả buôn trầu bán vôi
                        Vẫn là gạo đấy mà thôi
                        Vẫn là em, vẫn là tôi rối lòng...”
                                                            (Ru em ru tôi)
Không biết quê hương bản quán của tiên sinh ở đâu ta? mà tiên sinh lại nói hai lần “nỏ cần” ở đầu câu hay thế! Nói như vặt thịt, nói như trong người muốn văng ra một cái gì đó... Đoạn thơ trên, cũng đủ cho ta thấy khí phách của tiên sinh như thế nào. Một người tự xếp mình ngang hàng với “gạo quê” có nghĩa là chỉ cao hơn mặt đất bằng ba con kiến. Tuy có bé nhỏ, nhưng mà là “gạo quê” thứ thiệt. Không phải là gạo nhái, nên không cần đọc kỹ hướng dẫn trước khi dùng!.. Đã là “gạo quê” cho mọi người thì cần gì phải “chước quỷ mưu sâu” cần gì phải “buôn trầu, bán vôi”... Đó chính là tuyên ngôn về thơ, về cuộc đời của tiên sinh!... Nhìn trong thiên hạ này, có ít người nói năng quê mùa và ngang tàng như vậy!...

Bài thơ “trở về” là bài thơ khắc họa khá rõ nét về nhân cách ngòi bút của tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn. Trước cửa chùa, người đời thường cầu xin nhiều thứ... Còn ông, không cầu xin cho mình giàu sang, lắm bạc, nhiều vàng, bởi: “... tiền chi cho lắm khổ đau vì tiền... ”. Muốn cầu xin cho mình ngăn được “...những vòng xoay ngân hà...”. Nhưng buồn thay “...phận mình cũng phận heo may...” nên không thể đảo ngược được thiện ác ở cõi phàm tục này, cuối cùng thì đành phải:
                        “...Bâng khuâng đứng trước cửa thiền
                        Cầm bằng lấy sự bình yên trở về...”
                                                                        (Trở về)
                        Để rồi:
                        “... Ngày mai đến gốc bồ đề
                        Nhặt dăm cái lá đem về ầu ơ!...”
                                                             (Vào chùa )

Chỉ có những người hiểu đời, hiểu phật sâu sắc, mới viết đựơc những câu thơ như thế, Những câu thơ bâng khuâng mà đau xót! Cái đau xót của một người có tâm mà không có lực, muốn sống tốt với đời, với người... Mà đời và người lại không cho mình làm được việc ấy!... Đó là nỗi đau nhân bản muôn đời của thi nhân, khắc khoải, buồn chán, muốn tan ra cùng trời đất!...
Cũng với tâm trạng ấy, tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn viết về những con khỉ ở rừng trường sơn, trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những con khỉ không biết nói tiếng người, nhưng lại ném cho tiên sinh những chùm quả ngọt ngào khi mà tiên sinh đang đói, mách cho tiên sinh biết nguồn nước sạch khi mà tiên sinh đang khát, chỉ cho tiên sinh những lá cây để tiên sinh rịt vết thương!...Và trong cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ, ác liệt ấy, tiên sinh và con khỉ gắn bó sống chết bên nhau: “...Ta - chúng ta như những người bạn thân...” Để rồi bài thơ đóng lại với 3 câu kết thật bất ngờ làm lòng ta se thắt lại, nghĩ ngợi mung lung, xót đau không phải trước khỉ mà xót đau trước con người:
                        “... Cho đến một hôm
                        Chợt thấy chúng mày trong cũi sắt
                        Ta se lòng như một kẻ vô ơn!...”
                                                            (Trong vườn bách thú)
Những câu thơ giản dị như một lời nói thường, nhưng lại như dao sắt cứa vào lòng nhân nghĩa, như tiếng đàn của Thạch Sanh cứ tích tịch tình tang nói về nàng công chúa, như ngôi sao khuya lấp lánh về một tình bạn thủy chung không vô ơn bạc nghĩa...Thế mà đã làm bao kẻ phải giật mình!...
Sau phút bàng hoàng vì cú sốc làm chấn động mạnh về tinh thần, tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn như chợt bừng tỉnh trước cuộc đời, ông nghĩ lại tất cả, muốn cân lại tất cả giá trị cuộc đời trên cán cân lương tâm nhậy cảm của riêng mình!... Rồi khao khát một thế giới tự do, ở trái tim đau đời của ông được thảnh thơi yên nghỉ:
                        “... Bỗng tất cả đều trở thành vô nghĩa
                        Cái trong tay trở thành cái vô cùng
                        Ước có một nấm mồ xanh cỏ
                        Để chiều chiều khao khát một dòng sông!...”
                                                                        (Không đề)
Buồn thay! khi mà ước mơ của tiên sinh lại ở phía bên kia thế giới, nơi mà ta vẫn gọi là cõi vĩnh hằng. Cỏ xanh là thứ thuốc màu nhiệm sẽ rịt đi tất cả những vết thương đau, thù hận cho con người và mang lại sự bình yên thanh thản cho những trái tim khổ đau đang ngày đêm rỉ máu!... Tôi chợt nhận ra và lý giải được vì sao tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn đang làm quan ở nơi thành phố đèn hoa tráng lệ, lắm bạc, nhiều vàng, trăm ngàn “mỹ nữ cung tần” đêm ngày đấm bóp... Mà cứ khao khát được “trở về rừng”, giống như đã phải lòng ma và bị ma ám:
                        “...Sẽ đến một ngày, rất gần thôi có thể
                        Anh xa em trở lại với rừng
                        Gửi nơi này một chút nhớ nhung
                        Một ít khổ đau, một phần trách móc...”
                                                                        (Trở lại)
Ông nói lời lâng lâng nhẹ nhàng mà lòng ông lại trĩu nặng! Cái trĩu nặng của một con người sắp sửa từ giã cõi đời để đi xa. Nhưng chết không phải là ra đi mà là trở về, trở về với đồng đội đã yên nghỉ ngàn thu trong các cánh rừng Trường Sơn đầy mưa rơi gió thổi. Về với những con khỉ không biết nói tiếng người nhưng đã một thời cưu mang nhau vượt qua đạn bom, vượt qua cái chết!... Con người trước lúc đi xa bao giờ cũng cất lên những lời nói thật!... Lời nói thật vô cùng thương mến ông đã dành cho em trước tiên: “... anh xa em trở lại với rừng...” câu thơ không có nước mắt nhưng sao lòng ta cứ thấy nghẹn ngào rưng rưng muốn khóc!

Tưởng “em” là trên hết: “cảm ơn em ân nghĩa của đời anh / Dẫu có chết cũng là mãn nguyện...” (không đề). Nhưng không! Trong trái tim của tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn còn có một tình cảm cao hơn thế, sâu nặng hơn thế, lúc nào cũng canh cánh bên lòng!... Đó là tình đồng đội, tình bè bạn... Chiến tranh đã lùi xa rồi, những hố bom đã được bụi thời gian hàn kín miệng, “...cỏ đã bao phen phải làm lại từ đầu...” (Hữu Thỉnh). Thế mà lúc nào ông cũng nghĩ, cũng tự hỏi mình, hỏi em:
                        “...Anh chôn bạn dưới cánh rừng vắng lặng
                        Không biết cỏ xanh rờn đã lấp lối lâu chưa...”
                                                                        (Viết riêng cho em )
Câu hỏi day dứt tâm can ấy, không chỉ vang lên đối với đồng đội đã hy sinh mà vẫn thường vang lên đối với bạn bè đang sống!...Người có phúc lớn là người luôn đặt bạn bè lên trên mình và hết lòng yêu quý họ!... Với cương vị phó tổng biên tập báo văn nghệ, công việc hàng ngày rất bận rộn, nhưng mỗi khi rảnh rỗi là ông lại nhớ tới bạn bè, nỗi nhớ của tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn luôn là nỗi nhớ mặc áo thường dân:
                        “...Lâu rồi chẳng uống bia hơi
                        Chẳng ăn thịt chó chẳng ngồi lê la
                        Lâu rồi, lâu chẳng nghĩ ra
                        Bạn bè ta? Bạn bè ta thế nào?...”
                                                            
(Lâu rồi)
Hình như càng viết, tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn càng cô đơn và xót xa hơn! Một đêm khuya, gió lạnh đột ngột tràn về làm tiên sinh tỉnh giấc, mang rượu ra ngồi uống một mình, nói một cách chính xác hơn là uống rượu với trời đêm, uống nỗi cô đơn, uống buồn thê thảm:
                        “...Có cơn gió lạnh vô tình
                        Xui ta uống rượu một mình vu vơ
                        Cớ sao lại rối tơ vò
                        Cớ sao giận, cớ sao ngờ, đâu đâu?...”
                                                                   (Vu vơ)
Ba lần trong đêm tối ông đã hỏi “cớ sao” nhưng cả ba lần đều không có lời đáp, mày ông chau lại như những vị La Hán ở chùa Tây Phương, thân hình ông khô tóp như những nhà sư khổ hạnh!... Biết hỏi ai đây? Khi mà thật giả, vàng thau, đều đảo lộn như trò chơi oản tù tì của con trẻ:
                        “...Cái đùa cứ như thật
                        Chuyện thật lại như đùa
                        Điều không bán lại mua
                        Điều không mua lại bán...”
                                                (Kể cho bạn nghe)
Cuộc đời, nhiều khi như một trận đồ bát quái, đã vào rồi không tìm thấy đường ra, bởi 8 cửa đều giống nhau, như đùa như thật, như có như không... Những lúc ấy tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn cảm thấy mình lạc lõng nhỏ bé và yếu ớt như một loài hoa dại, nở ra một bông buồn, chưa kịp hái, hoa đã trôi về dĩ vãng...Tưởng sẽ kiếm chác ở đời này được cái gì đó. Nhưng không, đời đã lấy đi của ông tất cả, chỉ để lại cho ông sự nuối tiếc mỏng manh trong gió chiều ào ạt!...ông chỉ biết than thở cùng em:
                        “...ở trong anh có bông hoa không tên
                        Chưa kịp hái đã trôi về dĩ vãng!...”
                                                   (Hoa không tên)
Không biết vì sao hai câu thơ “cỏ dại” buồn thương ấy lại cứ ngân vang mãi trong lòng tôi, đem đến cho tôi rất nhiều lý thú và khoái cảm! Tôi thực sự cúi đầu kính phục tài thơ của tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn trước những câu thơ mảnh mai như thế – những câu thơ có sức mạnh quật ngã cả non cao sừng sững- Dù thơ đó có nhãn hiệu “cỏ may” nhỏ bé!

Hình như tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn đã học hỏi được rất nhiều, chắt lọc được rất nhiều tinh hoa của kho tàng ca dao dân ca tục ngữ Việt Nam “... làm trai cứ nước hai mà nói...”, “...Người khôn ăn nói nửa chừng, để cho người dại nửa mừng nửa lo!...” Nên thơ ông luôn dừng lại ở sự vu vơ lấp lửng, không rành mạch bao giờ. Làm cho người đọc phải suy nghĩ rất nhiều, và tự rút ra những kết luận cho riêng mình! Đó là bút pháp của ông, là tài hoa của ông, mà bài lục bát “giá như” là một ví dụ tiêu biểu:
                        “...Giá như cây vẫn còn xanh
                        Giá như đất vẫn ngọt lành như xưa
                        Giá như trời hết gió mưa
                        Giá như, ừ nhỉ, giá như, giá mà...

                        Giá như mình chẳng biết ta
                        Thì thôi, thôi thế, âu là...giá như...”
                                                             
(Giá như)
Thơ lục bát của tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn, cứ đỏng đảnh như người đưa võng, nằm trên võng là cô gái 17 tuổi đang muốn lấy chồng. Như con cá giếc cứ nhảy thách lên trên mặt nước ao thu trong buổi chiều đầy gió thổi!... Lạ lắm, không thể tưởng tượng nổi!...

Thôi! Mong tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn đừng có “giá như” nữa, vì nếu có “giá như” của ông thì cuộc đời vẫn quay tít mù như chiếc đèn kéo quân, không ai có thể làm nó dừng lại! Làm sao ông có thể biết được ngọn gió xưa “Bây giờ đang ở đâu” vì đường đi của gió là vô tận, luôn đổi thay và biến hoá khôn lường!... Dù thế cũng xin ông đừng buồn, vì những câu thơ nao lòng của ông, những lời ru khắc khoải của ông, như cánh chim, như tăm cá, như những chiếc lá vàng mà ông đã “thả” nó bay về muôn nơi. Người đời đã đón nhận nó như đón nhận tâm tình của một người bạn thân. Tôi vinh hạnh cũng được sự trôi dạt ấy, như chiếc ván cứu sinh giữa mùa nước lũ!...Thưa tiên sinh! Khi nào ông trút bỏ áo văn nghệ già trút bỏ áo văn nghệ trẻ, từ biệt em, từ biệt bạn bè, từ biệt thơ, từ biệt cuộc đời sướng vui và đau khổ này, để “trở về với rừng” - Điều mà lúc sống ông vẫn hằng khao khát – Xin gia quyến của ông, xin Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam, đứng đầu là nhà thơ Hữu Thỉnh, đừng có chôn tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn yêu quý của chúng tôi ở nghĩa trang Văn Điển, vì ở đó đông đúc quá, bởi khi sống ông là người không thích bon chen!... Hãy đưa ông về nghĩa trang Trường Sơn lộng gió, để ông được nằm đúng đội hình “thẳng hàng ngang, thẳng hàng dọc” cùng đồng chí, đồng đội của ông đã anh dũng hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nơi mà ông đã nhiều lần đến thắp hương cúi đầu tưởng niệm, nơi mà tình yêu tổ quốc trong ông đã nhân lên gấp bội!...

Không biết khi đã “trở về rừng” nằm dưới nấm mồ cỏ xanh, phía trước là dòng sông chiều lững lờ chảy qua, tiên sinh Trương Vĩnh Tuấn có còn nhớ đến những con khỉ ở vườn Bách Thú nữa không? Câu hỏi này, từ khi đọc thơ ông cho đến nay, đêm đêm cứ làm tôi thao thức!... Quái lạ! Sao ông lại “ru” đời như thế nhỉ???...
Đ.N.K
(201/11-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!

  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.