Trò chuyện với nhà văn Tô Nhuận Vỹ

20:17 19/06/2009
PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

Nhà văn Tô Nhuận Vỹ

PV: "Hàng chục" tác phẩm văn học?
TNV: Thậm chí đến hơn hai chục cuốn; vừa tiểu thuyết, vừa truyện ngắn, vừa tạp văn, lại vừa cả thơ nữa. Tuy vậy, chuyện "tụt hậu" này của tôi cũng có lý do. Trước hết là chính tôi muốn kìm lại tốc độ viết của mình. Sau một chặng đường chạy nước rút do dồn nén nhu cầu phản ánh những phẩm chất anh hùng của nhân dân, đồng đội... trong chiến tranh mà tôi trực tiếp chứng kiến, trực tiếp tham gia, đặc biệt được phản ánh trong bộ tiểu thuyết 3 tập Dòng sông phẳng lặng (đã được tái bản 3 lần), tôi chủ động "thả lòng" đoạn đường tiếp sau để có thời gian, khoảng trống... mà suy nhĩ và chiêm nghiệm về những vấn đề căn cốt của con người, của xã hội, của văn học. Cho dù, có lẽ suốt cuộc đời tôi sẽ không thể nào viết lại được, tạo dựng lại được những trang viết về vùng sâu Phú Vang quật cường với những con người như chị Hanh, Ba-hô răng, Thẻo...; những trang viết về những chiến sĩ đặc công kiêu hùng như Trung, Mùi, Xuân...; những trang viết về phong trào đô thị với bà Tịnh Nhơn, Cúc, Diệu, Linh, Thục Nguyên...; những trang viết về những con người từ "phía bên kia" trở về với đội ngũ kháng chiến như Nguyễn Khoa Bảo, Phi Hùng... Sự chiêm nghiệm đó phần nào thể hiện tiếp theo ở 2 tập tiểu - thuyết - luận - đề: Ngoại ô, Phía ấy là chân trời. Tiếp đó tôi viết tiểu thuyết Mưa rơi trên cầu. Nhưng chính vào thời điểm này tôi nhận ra rằng: những nhân vật mà tôi viết, trong thực tế cuộc sống nó sâu sắc, phức tạp, dữ dội gấp bội phần. Tôi quyết định "dừng lại" cuốn tiểu thuyết mà tôi đã viết được hai phần ba đó.

PV: Dừng lại cho đến nay?
TNV: Vâng, đúng thế. Một lý do nữa, chắc anh cũng biết, tôi có "kẹt" vào chuyện điều hành một vài công việc chung, trong đó thời gian 4 năm làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương không ít lúc trần ai, vật vã. Rồi chuyện riêng của gia đình tôi khi tai nạn đến với cháu gái đầu lòng... Mấy chuyện đó kéo dài cả gần chục năm chứ ít đâu anh. Tôi lại rất kém trong chuyện có thể vừa làm nhiều việc mà vẫn sáng tác được. Tôi chịu. Đã viết (nhất là những tác phẩm tâm huyết) thì không làm việc khác, mà đã làm việc khác thì dừng viết lại, chỉ có thể coi như một cuộc "đi thực tế" dài ngày. Vậy thôi.

PV: Dừng lại để chiêm nghiệm, điều đó cũng đồng nghĩa với sự chín hơn, sâu hơn trong một con người. Anh sẽ viết gì khi đã có thời gian và sự chiêm nghiệm đó?
TNV: Anh và độc giả cho tôi trả lời câu hỏi này khi cuốn sách tôi đang viết được xuất bản.

PV: E ngại, dè dặt, kín đáo... là những đức tính thường thấy ở người phụ nữ Huế. Trái với điều đó nhân vật nữ của anh, trong nhiều tác phẩm, lại cương quyết, mạnh mẽ. Có một lời giải thích nào ở đây không?
TNV: Dè dặt, kín đáo... Đó là "bề nổi" thôi anh. Khi buộc phải chọn một thái độ bảo vệ phẩm chất của mình, bảo vệ hạnh phúc của mình và của người thân, bảo vệ giá trị thiêng liêng của con người và của tổ tiên ông bà, của đất nước... thì họ lập tức rõ ràng, mãnh liệt. Như học trò Huế, hiền ngoan vậy đó, nhưng luôn là ngòi nổ, là nơi khởi phát nhiều cuộc đấu tranh chống Mỹ và tay sai ở các đô thị miền Nam trước đây. Như dòng sông Hương hiền hoà vậy thôi, nhưng đã bao lần là "Trường giang như kiếm lập thanh thiên". Cho nên tôi mới có những nhân vật như chị Hạnh, người phụ nữ nông thôn tần tảo nuôi con, chờ chồng tập kết ngoài Bắc, đã dâng cả tuổi trẻ cho cách mạng, trong những giờ phút ngặt nghèo nhất của cuộc chiến, đã dũng cảm giành lấy vị trí nguy hiểm nhất của cuộc đấu tranh trực diện với lũ khát máu của Trung đoàn Tân lập và cả khi tình thế thúc bách, đã tự đứng lên nhận lấy trách nhiệm Bí thư Chi bộ Đảng của làng quê chị. Hoặc như Diệu Linh, cô nữ sinh Đồng Khánh yểu điệu, đoan trang ngày nào, vào đêm đoàn quân Giải phóng phải rút lui khỏi thành phố, đã nhận giữ lại và gìn giữ những lá cờ với lời hẹn ngày gặp lại từ tay Mùi như một lời tỏ tình thiêng liêng với cách mạng, với chính người chiến sĩ đặc công anh hùng.

PV: Điều gì đã khiến anh viết và trở thành một nhà văn?
TNV: Làng quê tôi là Mai Vĩnh - Vinh Xuân dưới Phú Vang, nhưng đời ông bà nội tôi đã lên ở Huế, bên vạt Thanh Long. Bên ngoại tôi lại ở Vỹ Dạ. Ba tôi, bác và các cô tôi tham gia cách mạng và thoát ly từ rất sớm nên mẹ tôi đưa anh em tôi về ở bên ngoại từ nhỏ. Rồi anh em tôi theo ba mẹ ra Bắc sau hiệp định Genève. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi về dạy được hơn 1 năm ở trường cấp 3 Hậu Lộc - Thanh Hoá. Sau đó tôi trở về quê hương, làm phóng viên cho báo Cờ Giải Phóng Thừa Thiên Huế, phụ trách một bộ phận cơ sở nội thành của Báo và Ban tuyên huấn. Thời gian này tôi đi nhiều với bộ đội, với các đội công tác nội thành và cùng sống cùng hoạt động ở vùng sâu Phú Vang, Hương Thuỷ một thời gian dài trong kháng chiến chống Mỹ. Chính cuộc sống và chiến đấu cực kỳ gian nan, quyết liệt và lòng quả cảm lạ kỳ, tất cả đều vì Độc lập tự do cho Tổ quốc của bà con, của đồng chí đồng đội đã khiến những bài báo tôi viết, cho dù đã có đến hàng trăm bài, vẫn trở nên nhỏ bé, không đủ. Và tôi bắt đầu viết truyện ngắn. Rồi truyện ngắn cũng không đủ cho tôi "chuyển tải" tâm huyết của mình với những điều vĩ đại nêu trên, tôi viết tiểu thuyết.

PV: Nhớ lại những kỷ niệm đó, người anh muốn nói đến trước tiên là ai?
TNV: Nhân dân. Nói rõ hơn là các bà mẹ và các cô gái vùng sâu Phú Vang. Đặc biệt là các bà mẹ. Không có các mẹ và các cô gái vùng sâu yêu thương, đùm bọc cán bộ, bộ đội với tình thương yêu cao cả trong những ngày da diết đó thì tôi cũng chết mười mươi rồi. Nhất là những lần nằm hầm bí mật bị địch xăm hầm, lần bị thương nặng sau Mậu Thân. Có lần tôi nói chuyện với những sinh viên dự lớp sáng tác mùa hè tại Đại học Masachuettes (Mỹ) về chủ đề này. Cuộc nói chuyện ấy được ghi lại và lưu giữ như một tài liệu thường xuyên cho các lớp sáng tác hè về sau, có tên là the Women in War and My Writing (Người phụ nữ trong chiến tranh và trang viết của tôi).

PV: Đã kinh qua một số việc với vai trò người lãnh đạo, có lúc nào anh bị áp lực buộc phải làm trái với điều anh tâm đắc không?
TNV: Nếu trong hoạt động mà có sự phối hợp với người này người kia, tổ chức này tổ chức kia thì sự ĐIỀU CHỈNH là cần thiết, sự điều chỉnh đó không gọi là bị áp lực. Cha ông mình không chỉ nói "lý", mà nói "hợp lý". Cái lý có hợp thì mới là hợp lý. Vitamine B1 là thuốc bổ, nhưng uống một lúc 300 viên, nhất là sau khi ăn cơm no, thì anh có thể chết đấy. Ngoài chuyện đó ra, tôi chưa bao giờ để bất cứ một áp lực tiêu cực nào gây tác dụng xấu đến tôi, trong công việc cũng như sáng tác.

PV: Không phải nhà văn nào cũng có điều kiện đi đến nhiều nước như anh. Trong những chuyến đi ấy, đề tài nào anh thường xuyên giao lưu với bạn bè quốc tế?
TNV: Có 2 dạng đi khác nhau: đi với tư cách cán bộ đối ngoại và đi với tư cách nhà văn. Đi với tư cách cán bộ đối ngoại thì gấp gáp (nhiều nhất là 1 tuần, mươi ngày, có lúc chỉ vài ba ngày), luôn bù đầu vào những việc sự vụ về lễ tân, bàn bạc và ký kết hợp tác kinh tế, văn hoá, lắm lúc không có thời gian để thưởng ngoạn trời đất sông núi tươi đẹp của nước bạn nữa. Còn đi với tư cách nhà văn thì thoải mái hơn nhiều. Thời gian thì ít ra cũng vài chục ngày, có lúc cả tháng, vài ba tháng, tha hồ mà tạt ngang tạt dọc, thăm thú, quan sát, tìm hiểu. Nhưng đi với tư cách nhà văn cũng không thể có chung một cách thức. Ví dụ thời đi Liên Xô và Trung Quốc trước đây thì chỉ có đi chơi vui vẻ, đi học hỏi anh em là chính. Còn đi Mỹ, Pháp sau này thì lại là chuyện khác. Nhiều lúc phải trao đổi, tranh luận. Nếu gặp phải người đối thoại thuộc "Trường phái Căng - gu - ru" thì nẩy lửa. Trong những lần đi như thế này, gần như trong các cuộc chuyện trò, tiếp xúc trao đổi... tôi luôn tranh thủ lấy thực tế của chính mình, của chính gia đình mình, của quê hương mình mà mình trực tiếp, trực diện để nói cho bạn bè và người đối thoại hiểu đúng hơn về Việt Nam, một đất nước, một dân tộc văn hiến khát khao một cuộc sống hoà bình, độc lập và sự hiếu hoà; mà để có nó đã buộc phải cầm súng hết thế hệ này đến thế hệ khác.

PV: Anh cũng là người có duyên với điện ảnh. Tôi nhớ, trước đây tiểu thuyết Ngoại ô của anh đã được Hãng phim Giải phóng dựng thành phim nhựa. Hình như do Ngụy Ngữ chuyển thể?
TNV: Vâng, Ngụy Ngữ chuyển thể, Lê Văn Duy Đạo diễn. Thanh Lan, Lê Cung Bắc, Đơn Dương... tham gia đóng phim này.

PV: Hãng phim Giải phóng lần này cũng phối hợp với Đài PTTH Thừa Thiên Huế làm phim Dòng sông phẳng lặng. Công việc đến đâu rồi anh?
TNV: Mới xong khâu kịch bản. Lưu Nghiệp Quỳnh viết 13 tập và tôi viết 2 tập.

PV: Sao anh không viết tất cả mà phải...
TNV: Khởi đầu thì anh Phạm Ngọc Tiến - Giám đốc Hãng phim Giải Phóng cũng có đề nghị tôi trực tiếp viết kịch bản, nhưng tôi thưa thiệt là tôi không có kinh nghiệm về vụ này. Hơn nữa, anh Lưu Nghiệp Quỳnh và tôi cũng có mối thân tình và anh ấy có kinh nghiệm hơn tôi, lại có thời anh ấy đã bắt tay vào chuyển thể để làm phim nhựa mà không thành vì kinh phí sao đó...

PV: Thế lần này, vì là phim chào mừng kỷ niệm 30 năm giải phóng Huế và toàn Miền Nam, nên tỉnh Thừa Thiên Huế bỏ kinh phí lớn để đầu tư nên chắc kinh phí sẽ thuận lợi hơn?
TNV: Theo kế hoạch giữa Hãng phim Giải phóng và tỉnh Thừa Thiên Huế thì gần cuối năm nay phim đã khởi quay, nhưng chuyện tiền bạc hình như cũng chưa đâu vào đâu cả. Vậy đã là quá chậm rồi thì phải. Thường thì ai cũng hoan nghênh chuyện làm phim về truyền thống, về kháng chiến; với Thừa Thiên Huế thì đây lại là lần đầu có kế hoạch làm phim từ một tác phẩm văn học, nên lãnh đạo Tỉnh, các ngành, anh em văn nghệ sĩ... càng hoan nghênh. Nhưng đến much "đầu tiên" thì chưa bao giờ tôi thấy không trục trặc cả. Nhất là với Thừa Thiên Huế, một tỉnh còn nghèo mà phải chi phí nhiều thứ quá... Nhưng văn hoá văn nghệ ở đây càng ngày càng được đề cao và tôn trọng, nên tôi hy vọng kế hoạch sẽ được thực hiện có chất lượng.

PV: Rất quan tâm đến bạn bè, đồng nghiệp, người thân..., đó là tính cách anh tôn trọng và từng sống. Anh quan niệm thế nào về cách sống này?
TNV: Tôi đã cho một nhân vật chiến sĩ trong tiểu thuyết DSPL của tôi nói rằng, từ áo quần, dày dép, gạo cơm, viên thuốc, nhà cửa cho đến súng đạn, xe cộ,... cái chi ta cũng thua xa kẻ thù. Chúng ta chỉ có thứ hơn duy nhất là tình thương yêu đồng đội, anh em đồng chí và lý tưởng càng khiến cho tình thương yêu ấy nóng bỏng gấp bội để chúng ta có sức mà sống và chiến đấu. Đến cả tình yêu ấy mà cũng không có nữa thì chúng ta sẽ lấy gì để chống chọi lại với bọn Mỹ? Ý tưởng đó, đối với tôi, không chỉ là ứng xử trong chiến tranh mà là mãi mãi, trong mọi mặt của cuộc đời tôi.
PV: Xin cám ơn Anh!

NGUYỄN THANH TÚ thực hiện
(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.

  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.