Trào lộng cười cái rởm

08:51 31/10/2008
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)


Cầm quyển thơ Nhật thực của Nhất Lâm tặng tôi nó mỏng như một chiếc lá. Bởi các bài thơ đều rất ngắn. Chỉ có bài Nhớ là dài. Ông than phiền: Nxb bỏ đi mấy bài tâm huyết quá! - Như bài nào? - Tống biệt tù, ông đáp.
Tôi biết. Tống biệt tù là ông nhại từ Tống biệt hành của Thâm Tâm đã đăng báo Tuổi trẻ cười.
Đưa tiền ta từng đưa không xong
Sao lắm khổ não cả trong lòng…

Tôi nói như để an ủi: Thôi thì đã có bài Nhớ (xin tác giả Nhớ rừng đại lượng thứ) có đến 47 câu cho ông tha hồ châm, tha hồ giễu nhại!
Gặm một mối căm hờn trong nhà đá
Ta nằm dài bóc lịch tháng ngày qua…

Bạn đọc ở Huế, miền Trung hẳn biết một ông Nhất Lâm qua báo, truyện ngắn, tiểu thuyết và thơ. Ở lĩnh vực nào ông cũng làm tới nơi. Ông viết báo chống tiêu cực. Chống đến nỗi có lần “đương sự” trong một vụ buôn lậu sợ toá hỏa chuyện bèn phải thuê kẻ đến tận nhà đánh “cảnh cáo” ông (1994). Thì ông vẫn sống. Vẫn mái tóc bạch kim quá vai bồng bềnh trên xe đạp đi khắp các nẻo đường trên rừng dưới biển, đến những công trường xí nghiệp để lấy tư liệu viết.
Nhất Lâm đã in ba tập truyện ngắn. Truyện Mật đắng in trang đầu tuần báo Văn nghệ (2004). Truyện Chó ngoại in vào “Những truyện ngắn hay” (1998), Nxb Hội Nhà văn cùng các lão tướng trong làng văn như Nguyễn Tuân, Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng… Tiểu thuyết Đồi không tên, tác giả dựng lại bối cảnh cuộc chiến vùng A Lưới của quân dân ta với quân đội Mĩ mà Đồi thịt băm là một trận sống mái thảm khốc, tiêu hao lực lượng cho cả hai phía.

Và thơ. Nhất Lâm đã trình làng 4 tập thơ: Thức với mùa trăng, Tiếng khóc lời ru, Vú đá, Tiếng mưa. Thơ Nhất Lâm tinh tế, hồn hậu.
Đêm sâu lữ thứ tình dày mỏng
Thấm lạnh bờ môi tái tê lòng
Giang hồ tôi uống bao chiều vắng
Nước mắt nhòe mưa về bến sông

(Duyên mưa)
Nhật thực là tập thơ thứ năm của Nhất Lâm. Bốn tập trước là thơ tình đằm thắm. Đến tập này, ông quyết dồn nén và chuyển giọng trào lộng Tú Xương châm biếm chua cay! Nào là trâu, chó, mèo, gà, cò, cuội, ngựa, vịt, ô, lưỡi, đất, lạc, nợ, đời… được tác giả nhân cách hoá, “vật cách hoá” bằng tu từ ẩn dụ mà “phang” vào thói hư, tật xấu của người đời, của đám quan tham.

Ả mèo trèo vào buya – rô
Hỏi thăm anh sếp đi đâu vắng nhà
Anh sếp công chuyện từ xa
Đem theo tam thể nhởn nha quên về

(Ả mèo)

Sinh năm Bính Tí, ông đã vượt ngưỡng thất thập. Nhưng ông đi không biết mệt, ông đọc không biết mệt rồi chiêm nghiệm từng giờ khắc để rút ra cái ưu, cái nhược của kiếp người. Muốn phát huy cái ưu thì phải đánh mạnh vào cái nhược, cái rởm, cái thối nát. Mượn lời con hổ trong cũi sắt để mai mỉa cái rởm của sếp nọ, của ông tổng giám đốc công ty kia đang trong vòng lao lí.

“…Nhớ nhà hàng rượu ngoại mà mỗi khi
Tiếng nhạc du dương giọng bồ thủ thỉ
Với điệu giật vũ trường quay loạn xị…

Đèn mờ ảo, ta thăm dò bộ ngực
Một ngàn đô là nàng phẻ im re…

Rồi những ngày lôi két sướng biết bao
Và lặng lẽ lập chứng từ gian dối…

Trên răn đe ta bỏ mặc ngoài tai
Đâu những chiều lai láng ngàn chai,
Trăm phần trăm không bao giờ ta đổ
Rồi vô phòng ôm em thổ lộ
Than ôi thời thác loạn nay còn đâu?!...

(Nhớ)

Ở mọi nơi thơ phủ nhận bất công”. Tôi nhớ đã có ai nói thế. Bởi không chịu nổi thói rởm đời, thói ham của mà Tú Xương, Tú Mỡ, Tú Sụn… đã làm thơ châm biếm.
Nỗi đau thế sự thì các nhà thơ đều thường trực. Nhưng châm một đôi bài đã khó. Đằng này Nhất Lâm dồn vào Nhật thực đến 37 bài cùng một chủ đề “mặt trái xã hội” mà vút trào lộng Tú Xương thì thật đáng khen, đáng trân trọng.
 Huế, 08/ 2008
  V.N

(nguồn: TCSH số 236 - 10 - 2008)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Thơ là một bức xúc của tình cảm và tư tưởng con người, buộc con người phải diễn ra bằng ngôn ngữ, âm thanh, màu sắc, đường nét, hình khối. Thơ là đòi hỏi, là nhu cầu của con người, nếu không biểu lộ được ra thì còn bức rứt khổ sở.

  • (Đọc tập thơ “Thế giới và tôi” của Ngô Tự Lập)Tôi kém Ngô Tự Lập hơn chục tuổi nhưng không “trẻ” hơn anh. Tuổi trẻ làm ta cao ngất lên, tuổi già đôi khi cũng vậy. Nhưng cao ngất lên ta thấy gì nào?

  • “Tết không vào nhà tôi”(*)nghĩa là tết không vào nhà Phùng QuánCâu thơ tâm trạngVấn nạn một đời

  • Nhà thơ Phùng Quán trọn cuộc đời (1932 - 1995) là một chiến sĩ Vệ Quốc Đoàn xông xáo và nhiệt huyết.

  • Đầu những năm 61, Phùng Quán về lao động tại nông trường Thắng Lợi, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá. Quán ở đội 6 khai hoang, tôi ở đội canh nông Ngọc Ách từ trước.

  • Chỉ trong vòng 63 năm từ 1930 đến 1993, văn học Mỹ đã vinh dự nhận được 11 giải Nobel. Đây là một thành tựu vượt bậc đáng tự hào mà không phải bất cứ một quốc gia nào có thể sánh kịp. Đóng góp vào ánh hào quang ấy có John Steinbeck - nhà văn lớn của văn học hiện thực Mỹ.

  • (Đọc “Thơ Trần Quốc Thực” – Nxb HNV 2007)Giữa rất nhiều giọng thơ khoa trương, khoe mẽ hôm nay, Trần Quốc Thực là một giọng thơ lặng lẽ đầy bản sắc. Sự ngại giao tiếp, sự âm thầm dâng hiến cho thơ của Trần Quốc Thực đã khiến cho nhiều người không biết đến thơ anh.

  • Văn học huyền ảo ra đời mang lại một thành tựu của phương pháp sáng tác. Một bước chuyển tiếp sau hàng thế kỉ từ cổ điển, lãng mạn, rồi hiện thực.

  • (Đọc lại "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa)Tôi đã viết vài dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt cuốn "Chân dung và đối thoại" của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và cũng không viết nữa làm gì.

  • Nếu ai đã được say, đã được bay cùng vầng trăng trong thơ Lý Bạch, thì sẽ không khỏi chạnh lòng khi đọc những vần thơ trăng của Đặng Huy Trứ. Đặng Huy Trứ có yêu trăng không ?Rất yêu. Yêu rất nhiều...

  • Phùng Quán ơi ! Bây giờ trước cái chòi ngóng sóng ở mé Hồ Tây nhà anh, quán nhậu mọc lên nghi ngút, che khuất những bầy sâm cầm đương hạ cánh xuống hoàng hôn. Cái nhìn của anh cũng đói, nhưng ở thế giới bên kia anh đâu có ngán :"Trong trăm nghìn nỗi đói/tôi nếm trải cả rồi/tôi chỉ kinh khiếp nhất/ là nỗi đói tình người

  • Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

  • Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình Khoa học Công nghệ cấp Nhà nước KXO6 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm. Văn hóa chính trị truyền thống Việt là một đề tài quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN THỤY KHA(Đọc “Gửi VB” thơ của Phan Thị Vàng Anh, Nhà xuất bản Hội Nhà văn - 2006)Có một thời, người ta giấu kín nỗi cô đơn như một khuyết tật của mình để được hoà nhập vào đám đông ồn ào, hơn hớn lên đường, để được hy sinh và dâng hiến vô danh. Nhưng đã là khuyết tật thì có giấu mãi cũng đến lúc phải lộ ra, nữa là nỗi cô đơn không thể thiếu ở mỗi kiếp người. Mãi đến thời thanh bình, nỗi cô đơn của thân phận dần dà mới được nói ra.

  • Hoạ sỹ Đỗ Kỳ Hoàng nguyên ủy viên thường vụ Hội LH.VHNT TT.Huế, nguyên chủ tịch Hội Mỹ thuật TT.Huế, nguyên giảng viên Đại học Nghệ thuật Huế v.v... đã từ trần ngày 26 tháng 10 năm 2006, hưởng thọ 75 tuổi.Thương tiếc người hoạ sỹ tài danh xứ Huế, Sông Hương xin đăng bài viết của nhà thơ Võ Quê và xin được coi đây như một nén hương tưởng niệm

  • Ai cũng biết, anh là tác giả của các tập thơ và trường ca Bến đợi, Hát rong, Hoa tường vi trong mưa, Ngựa trắng bay về, Gõ chiều vào bàn phím...với những thao thiết của dã quỳ vàng, của thông xanh, xoan tím, phượng hồng, những gió và nắng, những bùn lầy và cát bụi, những cần rượu và cồng chiêng