VĨNH QUYỀN
Không ai biết chàng từ đâu đến, tên họ thế nào. Bản thân chàng cũng không có gì đặc biệt để cư dân kinh kỳ vốn quen chạm mặt khách tứ phương phải quan tâm.
Ảnh chỉ mang tính minh họa - "Cây gạo đầu làng" của họa sĩ Vi Kiến Thành - TTVH
Thế mà vào thành được mấy hôm, chàng đã trở thành trung tâm của dư luận. Từ bàn tiệc các bậc vương tôn công tử đến quán rượu khách giang hồ, đâu đâu cũng dậy tiếng bàn tán về chàng. Người ta tạm quên chuyện nhà vua giết hại em trai, chuyện nàng kỹ nữ đệ nhất kinh kỳ toan tự vẫn vì mất giọng ca thiên phú... để nói về tranh của chàng, hay đúng hơn, về con người kỳ dị của chàng.
Mỗi lần chàng vẽ xong một bức tranh, đám người hiếu kỳ đang vây quanh cùng kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc lẫn thán phục. Cái tầm thường trong đời sống hàng ngày cũng trở nên vô cùng thi vị, độc đáo trong tranh của chàng. Người ta tranh nhau mua tranh chàng, biến thành cuộc đấu giá sôi nổi.
Nhưng chàng không mảy may để tâm đến những gì diễn ra chung quanh, buồn bã xé bỏ bức tranh vừa hoàn thành. Khách yêu tranh cũng như bọn buôn tranh phải một phen ngẩn ngơ nuối tiếc. Chuyện ấy không chỉ xảy ra một lần mà luôn luôn lập lại, mỗi khi chàng vẽ tranh.
Người ta hỏi chàng:
- Vì sao anh làm chuyện điên rồ như thế? Anh không biết rằng bán số tranh ấy anh sẽ giàu có chẳng kém một quan cận thần nào ở kinh đô này?
Chàng đáp:
- Những gì ta vẽ ra đó chưa đáng gọi là tranh. Ta học vẽ không phải để trở thành người giàu sang. Theo nghề thợ kim hoàn của cha, ta kiếm tiền còn dễ hơn quan cận thần!
Với những vị mạnh thường quân trong giới đại gia, vọng tộc có ý mời chàng làm môn khách, chàng đáp:
- Tạ ơn các ngài đã chiếu cố tài mọn của tôi. Nhưng tôi vốn thích được làm con chim bay trên trời, con cá lội dưới nước. Và như vậy, may ra tôi có thể vẽ được bức tranh hằng mong ước chăng?
Cũng đột ngột và lặng lẽ như khi đến, chàng rời khỏi kinh thành. Chỉ trong ít lâu, người ta thôi xôn xao về chàng để trở lại chuyện nhà vua giết hại em trai, chuyện nàng kỹ nữ đệ nhất kinh kỳ toan tự vẫn vì mất giọng ca thiên phú cùng biết bao chuyện thị phi khác...
***
Trong lúc ấy, trên đường đi, chàng gặp sự bất thường. Quán ăn, nhà trọ nào cũng trả lời khi chàng tính tiền:
- Không dám, thưa tiên sinh. Tất cả đã được thanh toán xong!
Chàng không hỏi một lời, thản nhiên lên đường, tiếp tục vẽ và tiếp tục xé bỏ.
Một hôm, chàng phải vượt qua miền đất quạnh hiu, không quán chợ, không dân cư. Đang lúc chàng lúng túng chưa biết tìm cái ăn ở đâu, một chiếc xe độc mã xuất hiện, tiểu đồng xuống xe, lễ phép:
- Mời ngài dùng tạm chén rượu nhạt của chủ nhân tôi.
Chàng ăn uống kỳ hết mâm rượu thịt, không hỏi một lời, thản nhiên lên đường, tiếp tục vẽ và tiếp tục xé bỏ.
Hôm khác, chàng gặp con sông lớn hoang vắng, không một bóng thuyền. Đang lúc chàng hoang mang chưa biết phải làm sao, chiếc xe độc mã xuất hiện. Tiểu đồng đặt chiếc thuyền thúng trước mặt chàng:
- Xin ngài dùng phương tiện nhỏ bé này của chủ nhân tôi.
Chàng xuống thuyền, không hỏi một lời, thản nhiên lên đường, tiếp tục vẽ và tiếp tục xé bỏ.
Thế rồi chàng ngã bệnh, nằm một mình trong quán trọ ven đường. Đang lúc chàng tưởng phải bỏ cuộc tìm kiếm nghệ thuật, chiếc xe độc mã xuất hiện. Tiểu đồng lễ phép:
- Mong ngài cho tôi được hầu hạ thuốc thang và xin chuyển đến ngài lời chúc chóng bình phục của chủ nhân tôi.
Hôm đầu tiên rời giường bệnh cũng là hôm chàng hỏi tiểu đồng câu hỏi đầu tiên:
- Chủ nhân ngươi là ai?
Tiểu đồng đáp:
- Một vị thân vương cao quý.
- Ngài cần gì ở ta?
- Giúp ngài vẽ được bức tranh hằng mong đợi.
- Và gì nữa?
Tiểu đồng tủm tỉm cười:
- Ngài khắc hiểu!
Chàng lẳng lặng lên xe độc mã.
Tiểu đồng hân hoan ra lệnh cho xà ích:
- Quay về vương phủ!
***
Thân vương dẫn mấy chục môn khách đón chàng tận cổng. Bữa tiệc tẩy trần đã bày sẵn ở hoa viên. Chàng thản nhiên dự tiệc, thưởng thức tài nghệ ngâm thơ múa kiếm của đám môn khách vương phủ. Tiệc gần tàn, chàng mới thưa với vị thân vương:
- Xin ngài cất cho tôi căn gác nhỏ cuối hoa viên, cách xa dinh thự. Hàng ngày, chỉ một mình tiểu đồng mang cơm nước đến cho tôi. Tuyệt nhiên không ai được phép lui tới quấy rầy!
Cả vương phủ xôn xao tức giận trước thái độ khinh bạc của chàng, nhất là đám môn khách, trong đó có cả những nhà danh họa đương thời. Nhưng thân vương vẫn hòa nhã:
- Tất cả sẽ như ý tiên sinh.
Thời gian lặng lẽ trôi, một năm tròn có dư. Thân vương âm thầm chờ đợi. Nhưng ngày lại ngày, tiểu đồng chỉ có một tin báo duy nhất:
- Bẩm quan gia, ông ấy vẫn không động đến những họa phẩm quý giá của vương phủ.
Bấy giờ, không chỉ đám môn khách mà cả kinh kỳ bàn tán về cái điên của vị thân vương. Nhưng rồi chuyện nhà vua ám hại vị khai quốc công thần sau khi giết em trai, chuyện nàng kỹ nữ đệ nhất kinh kỳ tuy mất giọng ca nhưng vẫn được tuyển vào cung dạy vũ cho các phi tần... dần dần làm cho mọi người hầu như quên đi căn gác nhỏ kỳ dị cuối hoa viên vương phủ.
Cho đến một hôm, tiểu đồng xúc động báo với thân vương:
- Bẩm quan gia, ông ấy bảo con ngừng mang cơm rượu kể từ hôm nay. Bao giờ cần, ông sẽ gặp quan gia.
Thân vương hiểu tấm lòng thành của mình sắp được đền đáp.
Ba ngày rồi năm ngày lặng lẽ trôi qua. Cả vương phủ như đang sống trong cơn sốt. Từ xa, mọi người bỏ hết việc, ngong ngóng nhìn về phía căn gác yên ả cuối hoa viên.
Đêm chờ đợi nặng nề hôm thứ bảy đúng vào rằm trung thu. Trong tiệc rượu thưởng trăng cùng môn khách và quan viên, thân vương không quên dành một ghế trống cạnh mình. Ông vẫn hy vọng được đón tiếp nhà danh họa.
Nhưng chẳng có gì xảy ra.
Tiệc tan, khách vãn. Cả vương phủ chìm đắm vào giấc ngủ say nửa đêm về sáng, sau cuộc vui kéo dài. Nhưng không hiểu sao, thân vương vẫn còn thao thức, chậm rãi bách bộ trong hoa viên, dưới ánh trăng vằng vặc.
Tiểu đồng xuất hiện, giọng bùi ngùi thương cảm:
- Bẩm quan gia, lòng dạ con rối bời, con linh cảm có điều bất lành xảy ra cho nhà danh họa.
Thân vương hoảng sợ. Chính ông cũng đang mơ hồ nghĩ về điều đó.
Hai thầy trò quyết định làm trái ý chàng, đi thẳng đến căn gác cuối hoa viên.
Cánh cửa mở rộng, ánh trăng đầy tràn căn gác nhỏ. Và trong ánh sáng huyền ảo đó, một cảnh tượng kỳ dị hiện ra trước mắt vị thân vương. Thi thể giá lạnh của chàng phủ phục trước bức tranh cây gạo trổ bông. Trên mép chàng còn đọng vết son pha máu. Bức tranh không vẽ bằng bút. Chàng đã ngậm chu sa, đem chính nguồn sinh khí mình, thổ nên bức tranh tuyệt tác hằng mong đợi!
Cả một đời lịch lãm như thân vương, từng xem qua danh phẩm cổ kim, từng tiếp xúc không biết bao nhiêu nhà danh họa đương thời, ông chưa từng được trông thấy một bức tranh đơn giản mà kỳ dị thế này. Cây gạo mãn khai, hoa lá tốt tươi dưới ánh trăng rằm, nghe như có tiếng rì rào xao động của gió, thoang thoảng như có mùi hương thầm kín đâu đây trong thanh vắng...
Bất giác, thân vương quỳ sụp trước bức tranh cây gạo trổ bông của chàng, nức nở khóc như trẻ thơ.
Thân vương cho mai táng nhà danh họa trong nghĩa trang gia đình và đặt bức tranh cây gạo trổ bông vào chỗ tôn quý nhất ở gian tiền sảnh.
Việc đó đã biến ông thành thằng hề cho cả kinh kỳ lắm điều này.
Ở gian tiền sảnh, bên cạnh các danh phẩm khác, bức tranh cây gạo thật đáng ghê tởm! Đó chỉ là những mảng màu thô vụng, u tối, không chút gợi cảm. Chẳng ai, ngay cả những gã môn khách muốn lấy lòng thân vương, có thể dành lấy nửa lời ca ngợi bức tranh.
Chuyện đến tai nhà vua. Thế là mọi phẩm trật triều đình của thân vương bị tước sạch. Không thể giao việc quốc gia hệ trọng cho một người dở khùng dở điên như vậy.
Thân vương âm thầm chịu đựng mọi tai họa phát sinh từ bức tranh, nhất định không hủy nó theo lời khuyên của nhiều người. Nhưng thân vương không khỏi hoang mang. Bức tranh quả thô xấu như người ta vẫn chê bai, dè bỉu. Nhưng ông chả từng sụp quỳ trước nó hay sao? Chẳng lẽ cây gạo trổ bông dưới ánh trăng rằm, nghe như có tiếng cành lá xao động trước gió, thoang thoảng như có mùi hương thầm kín đâu đây tỏa ra từ bức tranh đêm ấy chỉ là ảo giác? Không, thân vương biết mình được diễm phúc một lần trông thấy bức tranh như vậy. Ấn tượng tuyệt vời ấy còn theo ông mãi đến bây giờ. Nhưng tại sao có sự trái nghịch như vậy? Thân vương đành chịu, không giải thích được.
***
Ba mươi năm sau.
Người đời đã thôi cười cợt bức tranh ma quỷ của chàng. Hình bóng chàng cũng đã nhạt phai trong ký ức mù sương của thân vương.
Từ lâu, thân vương giao việc cai quản vương phủ cho con trai. Việc đầu tiên của ông chủ trẻ là triệt hạ tranh chàng trai khỏi gian tiểu sảnh. Nếu không có lời xin tha thiết của viên quản gia, vốn là tiểu đồng trước đây, hẳn tranh chàng đã bị người ta đốt bỏ như đốt một vật tầm thường, thậm chí ghê tởm.
Chừng mười năm sau, viên quản gia lâm bạo bệnh, qua đời đột ngột. Từ đấy trong vương phủ không còn ai biết tranh chàng ở đâu. Và cũng đã lâu không ai nhắc nhở đến nó.
Đêm nay thân vương không ngủ được phần tuổi tác cao, phần khắp nơi vang dậy tiếng nói cười, tiếng trống thúc, pháp giục. Mọi người hân hoan đón trăng thu. Thân vương bỗng thấy cô đơn lạ thường, không muốn hòa nhập vào cuộc chơi của con cháu và đám môn khách của con trai, ông cụ chống gậy trúc, bách bộ một mình dưới ánh trăng vằng vặc.
Ngang qua nhà kho, ý muốn xem xét con trai lâu nay trông coi công việc làm ăn trong vương phủ thế nào chợt nảy trong lòng thân vương. Ông gọi viên thủ kho thắp đèn lồng đưa mình đi thăm vựa thóc. Vừa bước vào nhà kho, thân vương bỗng giật mình:
- Ai cho phép người trổ cửa sổ thế kia?
Thủ kho hoảng sợ:
- Bẩm quan gia, chúng tôi đâu dám làm chuyện ngu xuẩn đến vậy?
- Thế cái gì đàng kia?
Thân vương đưa gậy trúc trỏ vào một lỗ hổng vuông vuông trên vách trong bóng tối nhà kho, có thể trông thấy một khoảng đất trời ngoài kia và dưới ánh sáng huyền ảo của trăng thu, cây gạo hoa lá tốt tươi, nghe như có tiếng rì rào xao động của gió, thoang thoảng như có mùi hương thầm kín đâu đây trong thanh vắng...
Thủ kho vội thưa:
- Bẩm quan gia, đấy là ánh trăng theo lỗ mọt trên mái dọi vào bức tranh cũ đấy ạ!
Phút chốc, tất cả như sống dậy trong ký ức mù sương của ông cụ ngoài tám mươi.
Đó là tranh của chàng!
Ba mươi năm trước, chàng đã trút tinh huyết vẽ nên cây gạo trổ bông dưới ánh trăng như thế này. Và chỉ dưới ánh trăng huyền ảo, bức tranh ấy nơi đích thực là của chàng!
Than ôi, tìm kiếm nghệ thuật đã khó, hiểu được nghệ thuật còn khó hơn?
Bất giác, thân vương quỳ sụp trước bức tranh cây gạo trổ bông của chàng, nức nở khóc như trẻ thơ...
10-1986
V.Q.
(SH29/02-88)
VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…
TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.
ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.
ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.
VŨ NAM TRỰC Truyện ngắn
TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.
XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.
TRẦN THỊ TRƯỜNG Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.
NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...
HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.
PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.
NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.
CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.
NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.
LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.
NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.
PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.
MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.
MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.
ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.