Hưởng ứng cuộc thi “Sáng tác lời mới dựa trên các bài bản Ca Huế” năm 2021
Bài thơ “Ngẫm sự đời” của vua Tự Đức - Ảnh: vannghequangtri
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Phú lục
Ông Hoàng Thi Sĩ
Với, với đời mấy, mấy câu thơ,
Sự đời(*), thoáng đến là còn mơ,
Hồn lai láng, đến bây giờ,
Dại khôn, ý riêng đợi chờ,
Đày đọa, từng câu từ,
Khiêm Cung lặng thời cuộc xa,
Bi Đình vắng, gió ngân nga,
May có thơ này,
Nói theo cùng xưa xa.
Mai kia rõ, cao xanh ngát hương,
Lòng bận lòng thêm vương,
Ngai đường bệ vẫn ngỡ màng,
Đây thi phú thắm riêng mang.
Ai oán chi thân,
Có thi đàn cao sang,
Ngai vua giờ vẫn, giờ mênh mang.
Biết, có, biết, nào thấy ai người,
Mịt mờ bóng trăng cuộc đời,
Chỉ còn phú thi là nguồn vui,
Nét đong đầy thi tứ,
Chẳng giờ vơi!
----------------------------
(*) Hoàng đế Tự Đức có bài thơ chữ Nôm Ngẫm sự đời nổi tiếng: Sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê/ Sống gửi rồi ra lại thác về/ Khôn dại cùng chung ba tấc đất/ Giàu sang chưa chín một nồi kê/ Tranh giành trước mắt mây tan tác/ Đày đọa sau thân núi nặng nề/ Thử đến hỏi tiên, tiên chẳng biết/ Gượng làm chút nữa để mà nghe.
Tứ đại cảnh
Nhớ Hùng Binh Hoàng Sa
Ra đi cùng,
Hoàng Sa gió,
Khơi xa kể,
Cuộc thế muôn trùng.
Con sóng xa dâu bể,
Đà tiễn gió khơi cùng.
Xuôi rộng buồm này ngậm gió vươn,
Hẹn với nước tuôn.
Đem chí này căng gió giội, mưa bão bùng buông.
Con nước mênh mông thiệt,
Dồn dập nơi bao nơi.
Bây giờ trời,
Cùng gió tả mưa tơi theo Hải Đội1 xa khơi.
Mưa trắng nhòa,
Câu ước nguyện, mong thuận buồm xuôi.
Trong gió mưa nguy hiểm, hò dô hò… cất… lên.
Sóng dập dồn, thuyền thêm mối hiểm nguy,
Gào vang bão nổi thêm.
Người muôn người,
Neo mình với trùng khơi.
*
Sá chi tơi bời!
Chiếu vua ban2 đặng, nằng nặng muôn lời,
Ra ngoài đảo ngàn nơi.
Hùng hùng binh. Muôn đời. Gió Trường Sa.
*
Máu xương đất hòa.
Đến nay, đến nay còn mặn,
Hồn đậm, hồn đậm khơi muôn xa.
Thấm theo… sóng xô… muôn trùng.
Mây chan hòa, nhắc nhở Hoàng Sa…
Gió quanh trời, nhắn gửi Trường Sa…
---------------------------
1. Hải đội Hoàng Sa (Hoàng Sa Đội) do vương quyền các chúa Nguyễn lập ra để khai thác và giám sát khu vực quần đảo Hoàng Sa.
2. Các hoàng đế thời Nguyễn từng ban hành, phê chuẩn các chỉ dụ nhằm xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
(TCSH394/12-2021)
TRẦN HOÀNG PHỐ
HẢI BẰNG
PHẠM TẤN HẦUKhúc hát nhỏ gởi thành phố của tôi
Võ Quê sinh năm 1948 tại An Truyền, Hương Phú, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Võ Quê làm thơ từ năm 16 tuổi và có thơ in trên các sách báo văn nghệ tiến bộ ở miền Nam từ năm 1968. Nguyên là trưởng ban báo chí Tổng hội sinh viên Huế, anh đã bị ngụy quyền bắt giam ở Côn Đảo năm 72 và năm 73 được thả, thoát ly lên chiến khu. Anh là một nhà thơ được quần chúng yêu mến trong phong trào đấu tranh của sinh viên học sinh miền Nam.
TRẦN HOÀNG PHỐ Để tưởng nhớ nhà thơ Ngô Kha và Trần Quang Long đã hy sinh
TRẦN VÀNG SAO
LÊ VĂN NGĂN
VĨNH NGUYÊNDòng sông cảm nhận
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCà phê với bạn thơ ở Sài gòn
FAN TUẤN ANHĐoản khúc số 56
LÂM THỊ MỸ DẠThiên thạch
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Kính tặng Hà Nội - Trái tim
THÁI NGỌC SANHà Nội của tôi
HỒNG NHUNhặt được ở sổ tay 1
PHẠM TẤN HẦU Để nhớ TNS“tiếng thét trong bóng đêm mới mẻ, chỉ cần hát và chỉ cần khóc” J.BRODSKY
NGUYỄN KHẮC THẠCHNgón trăng1
LTS: Tại nhà thờ họ Lê của làng Mỹ Lợi, huyện Phú Lộc, vào tháng 10 năm 1950 đã diễn ra Hội nghị Họp ban thành lập Hội Văn nghệ Thừa Thiên, đánh dấu sự ra đời sớm nhất của một hội văn nghệ địa phương trong cả nước. Kỷ niệm 60 năm sự kiện đầy thiêng liêng và ý nghĩa ấy, những ngày tháng Tám, Trại sáng tác Về Nguồn đã được Hội LH VHNT tổ chức ngay tại mảnh đất Mỹ Lợi.
LTS: Đào Tấn (1845-1907) nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc. Ông đã ở Huế nhiều năm, viết nhiều vở tuồng có giá trị trong văn học sử Việt Nam. Cảnh sắc thiên nhiên và con người Huế cũng là nguồn cảm hứng của thơ, từ của ông. Chúng tôi xin giới thiệu một số thơ, từ của Đào Tấn viết về miền đất sông Hương qua bản dịch của nhà nghiên cứu tuồng Vũ Ngọc Liễn.
LÊ VĨNH THÁIKhi chúng ta không là của nhau
LTS: Ngô Minh sinh ngày 10-9-1949 tại An Thủy, Quảng Bình. Bắt đầu in thơ từ năm 1975. Được giải thưởng thơ hay báo Nhân dân 1978…Ngô Minh đã từng là bộ đội chiến đấu ở chiến trường miền Nam nhiều năm, vì thế thơ anh viết về nhiều đề tài cuộc sống, nhưng vẫn mang đầy hơi thở của một người lính: sâu đằm, bỏng cháy…