Trang thơ Hoàng Phủ Ngọc Phan

15:06 13/11/2015


HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

Ảnh: internet

Huế tên của nỗi nhớ

Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Tôi biết làm sao quên được

Giòng sông ấy như ngọc tan thành nước
Vẫn tháng năm lưu luyến đôi bờ
Đêm thì thầm chờ hoài thôn Vỹ
Những mảnh hồn sao rơi ngẩn ngơ

Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Tôi biết làm sao nói được

Đỉnh núi ấy từ muôn thuở trước
Vẫn cô đơn chờ mảnh trăng gầy
Mùa sim chín trên đồi bát ngát
Vẫn thèm ăn một chút trái hoang sơ

Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Còn chờ ai trong cơn bơ vơ
Chiều Nam Giao nhớ người Bến Ngự
Thương ai một đời lỡ hẹn trong mơ

Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Chiếc nón ấy có còn duyên dáng
Tà áo ấy đi qua cầu trắng
Gió xuân thì còn nhớ tóc mây
Sầu khơi đọng nhớ làn mắt ướt
Mưa kinh kỳ nhớ ai đêm nay

Nhiều khi gót mỏi đường đất lạ
Tôi muốn về thăm Huế một ngày
Muốn bỏ lại đằng sau tất cả
Về ngủ trên đồi với cỏ may

Người hỏi rằng xứ Huế bây giờ
Tôi biết thưa làm sao đây

Từng phen gió thổi vào cung lạnh
Vách quế thềm hoa cỏ mọc đầy.



Cảm đề Huyền Trân

Ôi Huyền Trân Huyền Trân
Thương hoài ngàn năm công chúa họ Trần
Có phải trong cuộc tình Ô Lý
Nàng sống với bao nỗi chết trong lòng.

Có phải ngày xưa nàng Huyền Trân
Cành quế thơm chưa luyến bụi trần
Từ lỡ duyên đầu phai tuổi mộng
Trái tim thường khóc những đêm xuân

Có phải ngày xưa Trần Khắc Chung
Một ngựa một gươm đời vẫy vùng
Ai biết tim chàng khô hết máu
Vì thương hương quế, tiếc giai nhân

Ta đốt đèn đêm nhớ sử xanh
Trắng đêm đàn lẻ nghẹn âm thanh
Muốn tìm một khúc Nam Bình mới
Phổ vào cay đắng gửi tri âm.

Ôi Huyền Trân Huyền Trân,
Thương hoài ngàn năm cô gái họ Trần
Hỡi cô gái bên đàn xõa tóc
Em có biết mối tình trúc ngọc
Ta cho nhau trong buổi muộn màng
Vẫn đẹp hoài như nụ tầm xuân

Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Trong cuộc tình cờ hối tiếc bâng khuâng
.


Tạm biệt

Khi chia tay lần đầu
Em biết yêu là khổ
Hằng ngày đứng bên lầu
Hoa ngày thường vẫn nở

Hoa lựu như giận hờn
Đánh rơi từng ánh lửa
Chùm hoa tím bâng khuâng
Đánh rơi từng nỗi nhớ
Đóa hoa vàng lẻ loi
Nhớ cánh bướm xa xôi
Em cũng nhớ anh ơi
Gọi tên anh thầm lặng

Buổi sáng nhìn mây trắng
Hờ hững bay ngang đầu
Mây ngàn năm lẩn thẩn
Biết trôi đi về đâu
Âm thầm bên song cửa
Con nhện giăng tơ sầu

Buổi chiều nhìn nắng xế
Hoàng hôn xuống bên lầu
Ngày biến thành chiều tím
Mắt em thì thẳm sâu

Nắng xế về bên ấy
Em chỉ còn bóng đêm
Một vừng trăng thao thức
Và lá rụng bên thềm


(SH38/07&08-89)







 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • ...sông vẫn xanh màu xanh thuở ấykhác là bây giờ bên sông nhà chọc trời soi bóngô tô đan kín đại lộ lấp loáng nắng trưahình như gió xưa đang háthoa bằng lăng tím lối qua cầu...

  • LƯU LYTên thật: Trần Thị Vân Dung, sinh ngày 28.8.1978 tại Thanh Chương, Nghệ An.Thơ Lưu Ly là sự giãi bày nỗi niềm của một tâm hồn đa cảm mà đơn phương... Sự chân thành mộc mạc của tác giả sẽ mang lại cho người đọc chút “hương đồng gió nội” thật hiếm hoi trong dòng thơ hiện đại.

  • ...Có nơi nào như đất nước tôitiếng trống tràng thành cũng lung lay bóng nguyệtthiếu phụ tiễn chồng ra trậnđêm trở về nằm gối nửa vầng trăng...

  • Trà Mi vốn là bí danh có từ thời hoạt động nội thành của Nguyễn Xuân Hoa được anh “nối mạng” vào “thương hiệu” thơ khi cái đẹp bừng nở trong tuệ giác.Dù không lấy thơ làm cứu cánh nhưng nó vẫn là một hằng số tâm linh đối với bất cứ ai trong mỗi một chúng ta. Sự tung hứng giữa cảm xúc và trí tuệ, sự cộng hưởng giữa truyền thống và hiện đại, sự bức xạ giữa ý tưởng và ngôn ngữ được coi như một nguyên tắc đồng đẳng trong thi pháp thơ Nguyễn Xuân Hoa.Nguyễn Xuân Hoa sinh năm 1947 tại Quảng Điền, TTHuế. Hiện là tỉnh uỷ viên, giám đốc Sở Văn hoá Thông tin TTHuế.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chùm thơ mới của anh.

  • ...Em đã lấy những gìmà Chúa không cần nữaNgười đã ban tặng emMột tình yêu đau khổ...

  • Cách đây 700 năm, vào năm 1306, vua Trần Nhân Tông gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa, bờ cõi Đại Việt được mở rộng. Hai châu Ô, Lý được vua Chế Mân cắt để làm sính lễ dâng vua Đại Việt. Sau đó, hai châu này được đổi thành châu Thuận và châu Hóa. Thuận Hóa được hình thành từ cơ sở đó.Những bài thơ chữ Hán viết về vùng đất này sớm nhất có thể kể đến như Hóa Châu tác (Làm ở Hóa Châu) vào khoảng năm 1354 của Trương Hán Siêu (?-1354); Hóa Thành thần chung (Chuông sớm ở Hóa Thành) của Nguyễn Phi Khanh (1355-1428); Tư Dung hải môn lữ thứ (Nghỉ chân ở cửa biển Tư Dung) của Lê Tư Thành (vua Lê Thánh Tông 1442 - 1497)... Nhân kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306 - 2006) TCSH trân trọng giới thiệu cùng độc giả ba bài thơ này.HẢI TRUNG giới thiệu

  • Đá Hạ Long đa tình hóm hỉnhNên mái cong đuôi trống xoè lôngTrời và nước hồng hoang kết dínhSóng nôn nao như tiếng vợ gọi chồng...

  • ...đêm bình yên linh hồn nương náusao ta một mình thao thứcsao ta một mình lay gọilối nào tới ban mai?...

  • ...khoảng vườn xanh xưatrồng toàn cây cẩm túnở một bông thôi cũng đủ nhớ thương người...

  • ...từng hàng cỏ mọc bon chencôn trùng nương náu cũng quen lâu rồi...

  • LTS: Nguyễn Xuân Hoàng viết nhiều, viết đủ các thể loại nhưng tác phẩm đã công bố phần lớn là truyện ngắn, bút ký, tản văn, tiểu luận v.v... còn thơ thì ít khi xuất hiện. Song, có lẽ thơ mới là “ngọc châu” trong văn nghiệp của anh. Những bài thơ gần đây được Hoàng viết ra như một sự dự phóng điềm gở của định mệnh.Khắc khoải yêu thương, khắc khoải đợi chờ là tâm trạng của Hoàng được “mã hoá” trong chùm thơ mà Sông Hương vừa tìm thấy trong di cảo của anh.

  • ...Xin hãy để ta mơ về Hợp NhấtLòng bản thể thẳm sâu hòa điệu giữa lòng ta...

  • LÊ HUỲNH LÂMSinh năm 1967, tại Phú Vang - Thừa Thiên Huế; Kỹ sư tin học (ĐH Bách Khoa Hà Nội). Tác phẩm đã in: Sông hoa (tùy bút)....ấy là một khuôn mặt trầm tư? U uất? Khuôn mặt với đầy đủ đặc tính của một “triết gia bi đát”. Bây giờ, những ngôn từ mà anh dày công nhào nặn đã ý thức hơn về vị thế của mình trong đoản - khúc - người, và chúng không còn cưỡng bức xác thân anh đi ngược chiều nhân loại nữa. Những ngôn từ  (bị dòng đời ám ảnh) đã tự sắp đặt thơ. Bây giờ, thơ trở thành tính từ của thân phận mỗi khi cõi lòng anh lên tiếng...Sông Hương xin chuyển tới bạn đọc ba “cột thơ” rút từ ngôi nhà của anh.

  • ...Không còn ở trong vòm cửa hẹpCả khoảng không bừng sáng quanh ta...

  • ...Tiếng aiTrong gióHú dài…

  • LGT: Như một chuyến hành hương về nguồn cội, với nghĩa cử cao đẹp, Công ty Văn hoá Trí tuệ Việt đã cho ra đời tập sách HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN, gồm nhiều thể loại như bút ký, hồi ký, thơ, nhạc,... Đặc biệt hơn hết là danh sách đầy đủ, chính xác của 10.263 anh hùng liệt sĩ yên nghỉ tại Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn.
    Sông Hương xin trân trọng giới thiệu tới bạn đọc những dòng thơ được thắp lên từ HUYỀN THOẠI TRƯỜNG SƠN - như một nén nhang gọi hồn những người đã ngã xuống!

  • LGT: Trong cuộc đi tìm mình khắc khoải ở trời , Nguyên Quân mang theo những u uẩn của quá nửa phần đời để mỗi buồn ngồi gặm nhấm. Chắc hẳn cũng nhờ vậy, anh đã làm được một điều không dễ - ấy là gọi tên đúng nỗi buồn giữa mênh mang thi phú...Sông Hương xin giới thiệu chùm thơ của Nguyên Quân mà hai trong số đấy sẽ được tuyển vào 700 năm thơ Huế.

  • Hơn một năm trước, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ giương cao Lá cờ trắng. Nhưng dường như đấy chỉ là hình thức “trá hàng” của một nàng thơ giữa độ hồi xuân.Không hiểu tự bao giờ, loài cúc dại đã cắm rễ vào cõi hồn đa mang của chị hút đến cả nỗi đau dung dưỡng xác thân trong kiếp luân hồi đầy khổ nạn. Tập thơ mới nhất của chị, là sự bung nở của vô vàn cúc dại, để trí nhớ đất này thêm những phút thăng hoa...

  • HẠ NGUYÊN* Sinh năm 1966 tại Hương Cần - Hương Trà -  TT. Huế* Hội viên Hội Nhà báo Việt , Ủy viên BCH Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế khóa IV (2007 - 2012).* Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế* Có nhiều tác phẩm in chung trong các tuyển tập: “20 truyện ngắn và ký 1975 - 1995”, “25 truyện ngắn và ký 1975 - 2000”, “Thời gian và nỗi nhớ”, “Trịnh Công Sơn - cát bụi lộng lẫy”, “Thừa Thiên Huế trong cơn đại hồng thủy (2000)” v.v.

  • NGUYỄN THIỀN NGHITên  thật là Nguyễn Bồn, sinh năm 1948 tại Phú Vang, Thừa Thiên Huế.Hội viên Hội Nhà văn TT.Huế.Hiện là giáo viên của Trung tâm Giáo dục thường xuyên Hương Thuỷ.