Trang Thế Hy: Đại thụ tỏa bóng làng văn

15:13 11/11/2014

Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”

Nhà văn Trang Thế Hy. (Ảnh do NXB Trẻ cung cấp)

Ông già héo queo như cây kiểng còi là cách Trang Thế Hy tự gọi mình, trong khi nhiều người thường trìu mến gọi nhà văn là ông Tư Sâm. Đã hơn 20 năm ông rời xa chốn phồn hoa Sài Gòn để “đi chỗ khác chơi”. “Chỗ khác” ở đây là mảnh vườn rợp mát bóng dừa, nơi ông sinh ra ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Nguyên văn câu này được ông nói vào tháng 10-1992, khi nhận cuốn sổ hưu trên tay: “Tôi sẽ rời thành phố để đi chỗ khác chơi vì đã hoàn thành nhiệm vụ”. Trang Thế Hy ít khi đăng đàn diễn thuyết bởi như ông tâm niệm, con người ta mất 2 năm để học nói nhưng mất đến 60 năm để học lặng im.

Cái nhìn chân, thiện

Độc giả đọc kỹ tác phẩm của Trang Thế Hy sẽ nhớ câu nói mà sau này giới viết văn Nam Bộ thường trích dẫn - bắt nguồn từ chú Tư Chơi, nhân vật trong truyện ngắn Chút hào quang từ mảnh vỡ của một ngôi sao buồn ông viết năm 1989, khi anh nhà văn về Sài thành tìm chất liệu sống, đã học được bài học đau đớn từ một ngôi sao sắp hết thời: “Khi nào biết mình viết hết được rồi thì phải đi chỗ khác chơi, đừng bẹo hình bẹo dạng ở chỗ trường văn trận bút và tuyệt đối đừng để những người hâm mộ mình đọc những câu lếu láo, nhớ chưa?”.

Câu nói của nhân vật chú Tư Chơi đó thực ra đã là triết lý làm nghề, đồng thời cũng là phương châm sống mà nhà văn Trang Thế Hy hằng tâm niệm.

Mừng thọ ông tròn 90 tuổi, NXB Trẻ in liền một lúc 4 cuốn sách của cây bút Nam Bộ đặc biệt này: 3 tập truyện ngắn Mưa ấm, Tiếng khóc và tiếng hát, Nợ nước mắt cùng tập thơ song ngữ Đắng và ngọt. 13 bài thơ của Trang Thế Hy được 2 dịch giả Nguyễn Bá Chung và Martha Collins dịch sang tiếng Anh, còn 11 bài thơ của Rabindranath Tagore được Trang Thế Hy chuyển ngữ sang tiếng Việt.

Trang Thế Hy: Đại thụ tỏa bóng làng văn

Bộ sách gom lại hầu hết tác phẩm lưu trữ và sưu tầm của nhà văn được mệnh danh là “người hiền của làng văn Nam Bộ”. Độc giả nghẹn ngào xúc động với “Anh Thơm râu rồng” và cuộc chiến đấu sinh tử khốc liệt của những người tù chính trị nơi hầm giam, với cả ký ức thơ ấu tức tưởi và cuộc sống đọa đày của dân đen dưới chế độ cũ. Trải qua giai đoạn chiến tranh, với Bà mẹ già và thúng khổ qua, Con cá không biệt tăm…, độc giả thấy được những chiêm nghiệm của ông trước thời cuộc, trước đổi thay, trước bao nhiêu vấn đề hậu chiến.

Vượt lên trên hiện thực đầy rẫy những khói lửa đạn bom và khổ đau, trang văn của Trang Thế Hy luôn tồn tại cái nhìn chân, thiện như ánh mắt nhân từ, hiền hậu và bao dung với con người, với cuộc đời.

Lượm lặt những mảnh “con người” nhất

Triết lý sống và viết của nhà văn lão làng thể hiện rất mạnh mẽ không chỉ trong Chút hào quang từ mảnh vỡ của một ngôi sao buồn mà ở nhiều câu chuyện khác, như Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư hay Nợ nước mắt. Bằng một giọng kể từ tốn, những câu chuyện mang đầy tính triết lý về sự sống, về tình người đã đi vào lòng độc giả rất đỗi gần gũi, giản dị, với ngôn từ, câu chữ đặc sệt Nam Bộ.

Nhà văn Lê Quang Trang, Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM, khẳng định: “Cuộc đời của nhà văn lão làng Trang Thế Hy cực kỳ chìm nổi. Tuổi trẻ, ông đi theo kháng chiến, vào rừng và sống với tư cách của người cầm bút chân chính. Cả đời ông đã luôn tuân thủ ngặt nghèo triết lý sống và viết một cách nghiêm túc nhất”.

Theo nhà văn Lê Quang Trang, Trang Thế Hy viết không nhiều, chủ yếu là truyện ngắn, khoảng 50 truyện, một số bút ký, thơ dịch và một tập thơ mỏng gồm 13 bài. Song, các sáng tác đều chứng tỏ ông thực sự là người kiệm chữ, sâu sắc, ý tứ nghiêm cẩn, kiến thức rộng nhưng luôn khiêm tốn, hòa đồng.

“Với những sáng tác đã công bố vừa mang nặng tính triết lý nghề nghiệp nhưng đồng thời lại chọn được cho mình một ngôn ngữ riêng, rất gần gũi với người đọc và đặc thù Nam Bộ, Trang Thế Hy xứng đáng là bậc thầy đáng kính trong văn đàn miền Nam” - nhà văn Lê Quang Trang nhận xét.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn TP HCM, đánh giá: “Nhà văn Trang Thế Hy luôn khẳng định bút lực của mình ở những tác phẩm gắn bó chặt chẽ với đề tài cuộc chiến tranh nhân dân. Ông vẫn luôn giữ được giọng văn hiền từ và tâm niệm nhiệm vụ của mình là đi lượm lặt những mảnh “con người” nhất đang bị lãng quên, bị bỏ lại, bị văng đâu đó trong cuộc đời xô bồ với hàng ngàn vấn đề thời sự nóng bỏng và đau đớn”.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu cho biết đến khi nhận sổ hưu, Trang Thế Hy xuôi về vườn, không viết nữa nhưng lạ là ông vẫn theo dõi thời sự và cực kỳ gắn bó với các lớp viết văn đi sau. Những người viết khác rất khó làm được như vậy. “Thế nên, làng văn Nam Bộ quý trọng nhân cách của một nhà văn, học hỏi từ ông tinh thần của một người cầm bút thật sự và coi ông như một người bạn văn lão làng, tràn đầy kiến thức và tình nhân ái” - nhà thơ bày tỏ.

Người hiền của văn học Nam Bộ

Nhà văn Trang Thế Hy, tên thật là Võ Trọng Cảnh, còn có các bút danh khác: Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn, Minh Phẩm. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP HCM, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và hiện là Chủ tịch danh dự Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (tỉnh Bến Tre).

Sáng mai, 12-11, tọa đàm Nhà văn Trang Thế Hy, người hiền của văn học Nam Bộ sẽ diễn ra tại NXB Trẻ (161B Lý Chính Thắng, quận 3) với sự phối hợp tổ chức của Hội Nhà văn TP HCM và Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu. Khách mời - nhà văn Lê Quang Trang, Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM và các nhà văn, nhà thơ: Nguyễn Duy, Ý Nhi, Ngô Thị Kim Cúc, Lê Thanh My... - sẽ trao đổi xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của ông. Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu là người dẫn chuyện buổi tọa đàm này.

Nguồn: Hòa Bình - NLĐ
 
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.

  • Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).

  • Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.

  • Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/  Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.

  • Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.

  • LÊ HUỲNH LÂM                 (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.

  • HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

  • ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.

  • NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.

  • L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG           (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)

  • YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

  • BÙI ĐỨC VINH            (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.

  • INRASARA           (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại.                Con sông nào đã xa nguồn                Thì con sông đó sẽ buồn với tôi                                                (Thơ Hoài Khanh)

  • THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.

  • HOÀNG VŨ THUẬT         (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)

  • TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.