THÁI KIM LAN
Từ xa nhận được hung tin Thầy nhập viện trong tình trạng nguy cập, tôi nôn nóng muốn về, hi vọng được gặp lại Thầy.
Anh Nguyễn Nhã bảo chỉ trong 48 tiếng, anh bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc lắc đầu bảo cũng không lâu. Nhưng tôi hi vọng, cái hi vọng của con tim mù lòa, mong có lúc Thầy tỉnh lại, ngồi dậy và cười với chúng tôi rồi nói một cách tươi vui „Các em ơi, Thầy thắng rồi“. Như có lần cách đây 10 năm Thầy đã thắng cơn đau thập tử nhất sinh để khi gặp mặt, Thầy bảo Diêm Vương sợ Thầy rồi, bảo về dương gian thôi và cười giọng cười Nam bộ rất đắc.
Về đến Sài Gòn gặp chị Hỷ Khương với đầu cúi xuống, nụ cười không còn tươi rói như ngày nào, thấy thương, nghe anh Nguyễn Nhã trầm tĩnh ở đầu dây có chút chi mừng, gặp anh Đỗ Hồng Ngọc tự tại nhưng cười hơi gượng, đêm về lại lo, nghe Thanh Thúy giọng như khàn hơn mọi khi, thấy sợ. Gặp Hoàng Anh ở đầu dây trong lúc Sài Gòn bốn bề xe kẹt, bỗng nghe hi vọng như „echo“ một thời trẻ dại…Mà cô ấy có lý khi bảo tôi rằng, chị ơi Thầy đang giả đò…chết… để dọa tụi mình“. Cô ấy nói mà nghe nước mắt chạy quanh. Thầy, con người vui sống, thích sống, mạnh mẽ sống, vượt trên mọi sóng gió gian truân, cho đến khi ngồi xe lăn vẫn còn vun vút đi khắp mọi miền, làm sao chết được? Thầy sống! Bỏ hết mọi lý luận khôn ngoan, tôi níu câu nói trẻ nít của Hoàng Anh mà về Huế lo công việc. Tôi tin, Thầy sống mãi, „Hổ nhớ rừng“, chúa tể sơn lâm giả vờ ấy thôi, như khi ở München năm 2002 ấy, ngồi trong phòng trọ thong dong, Thầy phất tay áo hát „truyền nhị vị phu nhân, mau mau vào chầu thánh thượng a!“ Và cả đoàn hát bội Bình Định, từ Chi Manh (nữ nghệ sĩ ưu tú Hòa Bình) cho đến Lộ Địch, cho đến Hỷ Khương, Hoàng Anh đến phủ phục quanh Thầy, huyên náo cười đùa, vui như… hát bộ.
Điều gì làm cho lũ chúng tôi, những đứa vô danh, lại có thể vui đùa hớn hở quanh một nhân vật mà cả bốn bể đều cho là phi thường, từ Nam chí Bắc cho là thiên tài họa hiếm, đã từng chinh phục khán thính giả năm châu yêu âm nhạc kịch nghệ, đã lừng danh dùng sở học uyên bác về nghệ thuật của mình che chở cả hồn dân tộc? Điều gì cho phép lũ trẻ con (đã già như chúng tôi) vừa cười mếu máo cho rằng Thầy chỉ giả vờ, chứ Thầy sống mãi!?
Trần Văn Khê! Ấy chính là nhà! Là mái nhà cho vô số chúng sinh. Thầy che hết, che mà không che, chỉ bằng tiếng đàn, giọng hát, trí nhớ vô song! Biết bao nhiêu thiên tài trên quả đất, biết bao nhiêu danh nhân hào kiệt anh hùng, sáng ngời sử sách, nơi Thầy lại ấm tình nhân ái lạ thường! Nơi Thầy tài bỗng là tình, và tình hóa nên tài. Cái tình của Thầy đối với mỗi người tế nhị và tinh chất như khi tay lựa từng phím đàn tìm ra tiếng tơ qua dấu nhấn, tưởng như hồn nhiên thả tiếng, nhưng chính là chạm được nỗi đau, nỗi niềm của người bên cạnh, để nhịp nối là cảm thông, xúc động là nhịp cầu bước tới người.
Khi gặp Thầy lần đầu tại München (1973), Thầy còn là một nghệ nhân thành danh, trước hàng trăm khán giả, nhã nhặn khiêm cung rất mực trong tiếng hoan hô. Đến và đi nhẹ nhàng, tuồng như chỉ là tao ngộ nhất thời. 26 năm sau (1999) gặp lại trong cuộc hòa thơ nhạc tại nhà chị Hỷ Khương, bỗng giật mình khi nghe người nghệ sĩ tưởng như chẳng nhìn ai ấy, lại có thể nhìn kỹ, nhớ kỹ và mô tả tỉ mỉ một con người chỉ gặp một lần. Mô tả ấy lại ý nhị vô cùng, không nhìn lên mà biết người ấy vừa đang lúng túng bên ngoài vừa đầy tâm bệnh bên trong (Bến Cũ Văn Lâu tại Thùy Khương trang). Cho nên nhắc, nhớ kỷ niệm là phương pháp vi tế chữa bệnh cho người, trong lúc tay vẫn nhấn dây tơ. Bất ngờ cơn bệnh trầm kha bỗng chốc tan theo cùng với tiếng đàn. Có lẽ tôi chỉ là một trong hàng nghìn, ức triệu hay „tỉ tỉ“ (để nói như chị Hỷ Khương) trường hợp với Trần Văn Khê trong cảm thông nhân ái, từ đó đi suốt đời người. Tính nhân ái ấy không xa hoa, không ồ ạt vồn vập mà như dòng nước thấm sâu, tựa như tiếng đàn âm thầm tìm đến cố nhân.
30 năm sau (2002) trở lại München cùng với đoàn hát bội Bình Định lưu diễn vở tuồng Lộ Địch, Thầy lại là người ôm tất cả mọi người vào trong lòng, âm thầm ủy lạo và khích lệ đoàn hát xa nhà, sát cánh với anh em nghệ nhân và ngay cả người tổ chức. Phải nói một lời cho rõ, cuộc lưu diễn nếu không nhờ tài thuyết diễn đầy đam mê, tài hoa và tài tình nhất mực của Trần Văn Khê không thể thành công đến thế. Cuối cùng khán giả lại chạy theo Trần Văn Khê để tìm để biết hồn nhạc Việt Nam. Trần Văn Khê, trái tim và tiếng nói Việt Nam, như cuộc phỏng vấn trên đài München dội vang. Riêng tôi đội ơn Thầy vạn bội cái tình mẫn cảm, luôn che chở cho tôi làm tròn công việc, đứng trên sân khấu cùng với khán giả hòa hợp đồng tình.
Và từ đó Trần Văn Khê trở nên một người thầy ẩn mật truyền đạo cho tôi, hầu như là không lời, ngay cả khi Thầy viết hay nhận xét về tôi, thì những lời ấy chỉ là bên ngoài, bên trong Thầy như đã nắm tay chỉ cho tôi dấu vết con đường nhân ái mà Thầy đang đi, ấm áp, thuần nhị và vi tế vô cùng, vi tế như tiếng tơ Thầy thường gảy khúc cho chúng tôi nghe. Tìm và nghe mãi cho đến khi tỉnh giấc mê lầm và thấy được con người thuần chất ấy.
Cuối cùng tôi đã thấy được, 50 mươi năm sau (2013), tôi là khán giả của cuộc trò chuyện thơ nhạc Hàn Mạc Tử và Phạm Duy tại Huế mà Trần Văn Khê là người giới thiệu. Trên sân khấu, mắt tôi được đổ đầy hình ảnh của hai lão nhân nghệ sĩ bậc nhất của Việt Nam nói chuyện thơ nhạc. Một cuộc trùng phùng kỳ lạ. Một ông lão 90 nói về một ông già 90, nhưng họ trẻ, sức sống họ tràn đầy, tài hoa của họ sáng rỡ. Tôi mở mắt to muốn thu hết từng chi tiết, từng cử động của mỗi người, như quay cho tôi một cuốn phim. Bỗng nhiên Trần Văn Khê choáng ngợp võng mô tôi. Con người nức tiếng ấy, thân xác dềnh dàng ấy, trong vai trò giới thiệu, như đang làm bé lại, để ca ngợi, nâng cao người bạn tài hoa của mình, vụt lớn tràn mắt tôi, làm mờ tất cả những người chung quanh. Trần Văn Khê năm 1973 đi qua với tiếng đàn hờ hững trong tôi, mãi 40 năm sau (2013) tôi mới thấy được Trần Văn Khê, thấy trái tim của ông - một chữ hầu như là sáo ngữ, mà tôi phải dùng – trái tim Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đại từ bi, bên trên tính toán ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Âm nhạc trên hết không chỉ ca ngợi yêu thương, mà yêu thương thật tình, yêu con người từ trong trứng nước.
Thiên tài Einstein cuối đời nhận ra được „Thay vì sử dụng công thức E = mc2, ta chấp nhận rằng, năng lượng hàn gắn thế giới có thể đạt được bằng tình yêu được sản sinh với tốc độ ảnh sáng bình phương, thì chúng ta hoàn toàn có thể đi đến kết luận: Tình yêu chính là một lực mạnh vô song, bởi nó không hề có bất kỳ giới hạn nào (Thư gửi con gái)“
Einstein! Xin ông hãy làm một quả bom Trần Văn Khê nhân Trần Văn Khê lên tỉ tỉ lần, nói như chị Hỷ Khương!
6 giờ sáng ngày 29/6 Hoàng Anh gọi cho tôi bảo đang đi đưa Thầy về cõi Nhạc Trời. Tôi ngồi đây, gạt lệ chia tay.
Huế 29/6/2015
Chú thích;
Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị
Hồ Thị Hoàng Anh, người mẫu Huế và nghệ nhân ẩm thực
Hàn Thuyên Nguyễn Nhã, giáo sư sử học
Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc
Thái Kim Lan, Bến Cũ Văn Lâu
Trần Văn Khê, Đọc thư gửi con của Thái Kim Lan
Trần Văn Khê, Nhân đọc Trần Thái Tông, nhân ảnh của Thiền học Việt Nam của Thái Kim Lan
A, Einstein, Thư gửi con gái Lieserl
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).