Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.
Trần Nhã Thụy chọn câu thơ của Hoàng Hưng làm đề từ cho cuốn sách mới: "Có bao nhiêu nát tan. Đội lên đầu mà hát". Những trang tiểu thuyết của anh phản chiếu cuộc sống hiện đại với đầy ắp sự kiện, thông tin và chồng chéo giữa chúng là những giá trị tinh thần, vật chất bị phân mảnh.
Trần Nhã Thụy tâm sự, anh dành nhiều thời gian cho đề tài về đời sống xã hội đương đại. Bắt tay viết tiểu thuyết Hát từ tháng 2/2008 nhưng phải đến tháng 3 năm nay, anh mới hoàn thành cuốn sách. "Có những trang độc giả chỉ mất vài phút để đọc nhưng người viết thì nhọc nhằn cả năm trời", anh chia sẻ về công việc của mình.
Nhân vật chính của tiểu thuyết là Kỷ - một nam kỹ sư của Viện Giống. Kỷ độc thân, sống giữa Sài Gòn nhưng lại mê giai điệu ca trù xứ Kinh Bắc. Nhân duyên đưa anh gặp gỡ và theo học ca trù từ mẹ con Xuân Nương - những ca nương hiếm hoi còn sót lại. Giữa phố xá Sài Gòn, ca trù bị lạc tông và cuộc sống những ca nương trở nên mong manh. Họ luôn gây cho người đọc cảm giác lo âu, phập phồng về những bất trắc có thể gặp.
"Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy chốc". Vậy nhưng, trong "mấy chốc" ấy, nhiều người lao vào vòng xoáy của tiền, tình, hư danh, ảo vọng không thành. Trần Nhã Thụy vẽ nên những nhân vật đa màu sắc như: ca sĩ Viễn Trinh, nhà báo Râu quai nón áo bốn túi, nhà cải cách văn hóa với những phát ngôn gây sốc tên Sinh, những Đại Thi sĩ, họa sĩ nửa mùa... Họ đều tất bật trong cuộc chạy đua mà không biết mình đua với cái gì.
Tiểu thuyết Hát cũng vẽ nên thế giới xa hoa trong cuộc sống của những người giàu ở Sài Gòn. Các biệt thự sang trọng nằm trên những hòn đảo biệt lập của thế giới người giàu tạo nên một Sài Gòn khác với hình ảnh đô thị của người nhập cư mà nhiều người từng biết.
Và trong thế giới ấy, Kỷ không chạy đua, nhưng những tháng ngày của anh lại lạc lõng, đơn điệu. Bị ám ảnh từ sự thất bại với người tình đầu tiên, Kỷ cô độc.
Ở cuốn tiểu thuyết thứ hai này, Trần Nhã Thụy chủ ý mang đến giọng điệu mới mẻ cho văn phong của anh. Bên cạnh giọng văn có phần trầm lắng cố hữu, anh có những trang viết hài hước, giễu nhại. Trần Nhã Thụy đưa kiểu "văn báo chí" vào ở những phần phụ lục sách. Phụ lục không nằm cuối sách mà nằm xen kẽ ngẫu hứng giữa các chương, như để minh họa cho những điều đang diễn ra trong tiểu thuyết.
Trần Nhã Thụy chỉ dùng một từ "hát" không viết hoa để gọi tên cho những thanh âm của đời sống dội về trong tác phẩm mới của anh. Hát nuôi dưỡng tâm hồn sơ sinh. Hát như tiếng kinh cầu đưa ta về đất. Hát lên niềm vui. Hát lên tình yêu. Hát cho những tủi cực, nhọc nhằn. Hát cho những nát tan. Hát như một cách giải thoát...
Nguồn: Bạch Tiên - vnexpress
MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trích Tự truyện “Số phận không định trước”
Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.
NGÔ MINH
Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.
NGUYÊN HƯƠNG
Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.
GIÁNG VÂN
Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.