NGUYỄN QUANG HÀ
Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.
Ảnh: internet
Đồn được xây bằng xi măng cốt thép, có tháp canh, xung quanh được rào bằng mấy lớp dây kẽm gai đan nhau chắc chắn. Đứng gác trên đỉnh tháp canh này có thể quan sát được cả một vùng đất đai rộng lớn, nhìn qua ống nhòm thì cảnh quan tất cả hiện ra trước mắt rõ mồn một.
Khi chuẩn bị đánh Huế, đồn An Cựu là một trong những đồn được quan tâm, vì đó là hướng tấn công phía Nam.
Quân Giải phóng ở Huế có hai tiểu đoàn đặc công. Đó là tiểu đoàn Chị Thừa Một và tiểu đoàn Chị Thừa Hai. Tiểu đoàn Chị Thừa Một được giao nhiệm vụ đánh đồn An Cựu. Đại đội trinh sát Hoàng Minh được trực tiếp nhận nhiệm vụ này.
Gọi là đại đội nhưng tất cả vỏn vẹn chỉ có 31 người. Là chỉ huy, nên Minh thực hiện từng bước một, hết sức bí mật. Đầu tiên, anh cho lính trinh sát nắm chắc đường đi lối lại, thật cụ thể. Tiếp theo là nắm chắc cơ sở ở An Cựu, để có người dẫn dắt, che chở, giúp đỡ, cho biết dư luận địa phương… Thông tin cụ thể mà cơ sở cho Minh biết là: trong đồn có một đại đội lính Cộng hòa đóng quân và có một sĩ quan mũ nồi đỏ chỉ huy. Đồn bốt vững chắc, quân lính đầy tin tưởng, nên có người giở giọng kiêu căng (cũng phải thôi): “Có thách bọn Cộng sản cũng không dám đụng tới đồn An Cựu”.
Minh thận trọng tới mức độ, trước khi xuất quân trinh sát, anh đã tổ chức một tổ ba người do anh chỉ huy, đi “tiền trạm” vào đồn An Cựu. Chuyến đi thành công: địch không phát hiện được gì, cả ba người trở về an toàn. Anh Minh khẳng định: “Ngày tới chúng ta sẽ trinh sát thành công”.
Minh cho họp đại đội, chính thức báo cáo với toàn đội kết quả cuộc đi vừa rồi. Anh em rất mừng. Ngay sau đó anh Minh tổ chức cho đại đội đi trinh sát. Anh em đã ngụy trang rất kỹ, toàn người xanh như lá cỏ, và bò vào đồn cũng rất kỹ thuật để lính canh chòi gác không dễ phát hiện.
Cẩn thận đến thế, ngỡ đã cầm chắc an toàn hơn chín mươi phần trăm rồi, nhưng anh Minh không thể ngờ rằng anh em đã ra ngoài đều đến gần bờ rào dây thép gai, bỗng súng trong đồn bắn ra cả một băng đạn dài, không có ai chết, nhưng ba người bị thương. May là lúc ấy, anh em nhảy vọt ra bờ rào là thoát hiểm. Bị lộ. Một trận mưa đạn bắn theo tới tấp, tới tấp…
![]() |
Minh họa: TÔ TRẦN BÍCH THÚY |
Tiểu đoàn trưởng cho họp khẩn các đại đội trưởng và nghe anh Minh báo cáo. Tiểu đoàn trưởng xác định: Chuyện đi trinh sát mà bị lộ thì cũng không có gì lạ. May mà không có ai hy sinh. Điều quan trọng với chúng ta là rút kinh nghiệm để các cuộc trinh sát khác thành công.
Anh Minh xin lỗi thủ trưởng.
Tiểu đoàn trưởng hỏi:
- Vậy thì bây giờ anh Minh tính sao đây để kế hoạch diệt đồn An Cựu của chúng ta vẫn được thực hiện?
Anh Minh có ý kiến:
- Theo tôi đêm nay chúng ta đánh đồn An Cựu.
Tiểu đoàn trưởng hỏi:
- Anh Minh có liều lĩnh không đấy?
Anh Minh đáp:
- Như lời cửa miệng đầy ngạo mạn của nhiều lính địch trong đồn: “Dẫu có thách, quân Cộng sản cũng không dám đụng vào đồn An Cựu”. Thêm vào cuộc trinh sát của chúng ta bị lộ, chúng càng tin rằng chúng ta chưa dám làm gì tiếp… Chúng sẽ thảnh thơi chơi và có thể ăn mừng chiến thắng hôm qua… Đánh vào sự chủ quan và ngạo nghễ ấy, một cách thật bất ngờ, chúng ta chắc dễ thành công.
Có người phản đối nhưng cũng có người ủng hộ ý kiến của Minh. Bàn đi, tính lại, số đông nghiêng về phía ủng hộ. Tiểu đoàn trưởng cũng không gạt bỏ ý kiến của Minh, chỉ đề nghị xin thêm ý kiến của mọi người.
Đại đội trưởng đại đội ba phát biểu:
- Tôi đồng ý hoàn toàn với phương án chúng ta đã thống nhất. Đại đội chúng tôi sẽ kết hợp với đại đội trinh sát của anh Minh, cùng tham gia đánh trận này.
Các đại đội trưởng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Tiểu đoàn trưởng lập tức cho triệu tập đại đội ba tới, lên ngay kế hoạch tấn công. Đại đội ba chọn chừng ba mươi người (1/5 quân) tham gia. Đại đội trinh sát dẫn đường, hành quân theo bốn mũi: một mũi đánh vào phòng chỉ huy đồn, hai mũi đánh vào phòng lính đồn, một mũi nhắm vào chòi canh gác, bắn cho được tên lính canh. Tất cả bốn mũi cùng nổ súng vào giờ G.
Đêm ấy, không chỉ Tiểu đoàn trưởng Chị Thừa Một không ngủ, mà hầu như các anh em ở nhà đều thức chờ giờ nổ súng. Đúng ba giờ sáng, tiếng súng và tiếng bộc phá đồng loạt nổ vang, xé màn đêm bình yên. Không hề có tiếng súng đáp trả của lính trong đồn.
Trận đánh bất ngờ đã thắng lợi lớn.
Trung đoàn trưởng Thân Trọng Một đích thân về tận đại đội ba và đại đội trinh sát, Tiểu đoàn Chi Thừa Một khen và tặng quà. Ông nói một câu như đinh đóng cột:
- Chúng ta đã đánh thắng một trận bất ngờ. Đây là bài học rất đáng quý cho chúng ta.
N.Q.H
(TCSH43SDB/12-2021)
HỒ DZẾNH
Hồi ký
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
NGUYỄN DU
LÝ HOÀI THU
Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.
PHẠM THỊ CÚC
(Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)
Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.
CAO THỊ QUẾ HƯƠNG
Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.
THÁI KIM LAN
Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.
Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?
Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.
Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.
DƯƠNG PHƯỚC THU
LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.
NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN
(Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)
BÙI KIM CHI
Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…
LÊ MINH
Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)
… Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.
NGUYỄN KHOA BỘI LAN
Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.
(SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.
NGUYỄN CƯƠNG
Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.
HOÀNG HƯƠNG TRANG
Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.
PHẠM HỮU THU
Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.
TRẦN NGUYÊN
Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.
PHẠM HỮU THU
Nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22 - 12
“Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi” (Nhà văn Phùng Quán).