Trà My đã cập bến thơ

10:08 17/03/2009
YÊN CHÂU          (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.

Có bài nhoà nhạt như “Nắng tháng giêng”, giống như thơ học trò. Cũng viết để miêu tả chung chung:
            Xanh non mấy hàng cổ thụ
            Xôn xao đón nắng giữa chiều
            Thanh tân hàng cây và lá
            Bóng ngả theo chiều liêu xiêu”.
Chữ nghĩa đèm đẹp vậy thôi. Đọc xong cả bài, không thấáy tác giả nói được điều gì. Tả để mà tả. Cảm xúc nhạt. Những bài thơ kiểu ấy, chả thể thành thơ.
Gạt một số bài kiểu học trò này, các bài khác trong Thơ Trà My lại đọng lại trong người đọc một gam buồn. Buồn mac mác. Càng đọc càng không dứt ra được. Nó có cái gì đó khác với Nguyễn Xuân Hoa tỉnh táo hàng ngày. Tôi đọc Trà My, vừa đọc, vừa nghĩ tới tác giả của nó. Vì lâu nay anh em viết hay nói cửa miệng với nhau: “Văn là người”. Người thế nào thì văn cũng vậy. Nguyễn Xuân Hoa có thể nói là người thành đạt, thành đạt trong học hành, toại nguyện về gia cảnh, và có thể nói cũng khá yên tâm trên đường công danh so với lứa sinh viên tranh đấu thời Mỹ ngụy như anh.

Tôi tự hỏi: vậy tại sao cái gam buồn cứ tràn trề trong thơ anh. Có phải vì đa mang với thơ không: “Đôi khi thơ như trái đắng/Vô tình rụng xuống đời ta” (Những đoản khúc thơ). Sao trong đời không thấy một lần nào tâm sự với nhau điều này.
Vậy mà sao mở mắt ra đã thấy Nguyễn Xuân Hoa buồn:
                        Sáng ra đã thấy một ngày
                        Ngổn ngang trăm mối vòng quay của đời
Ngay cả khi bên người vợ yêu, người vợ từng chia xẻ biết bao điều với mình, lẽ ra phải vui mới phải, vậy mà Trà My vẫn không dứt được nỗi buồn ra khỏi chính con người mình:
                        Thơ làm cho vợ đọc chơi
                        Cũng nghe thấm nỗi đau đời của thơ
                                                            (Thơ nịnh vợ).

Khi Trà My uống rượu, người buồn thường mượn rượu để tiêu sầu, Nguyễn Xuân Hoa nâng chén rượu lên đã thấy đau rồi. Ngay đầu đề của bài thơ: “Buồn vui nhân thế đọng lời xót xa” đã cảm thấy những giọt rượu buồn rơi rơi:
                        Ngất trời với chén rượu đau
                        Tiễn đưa một thuở qua cầu đắng cay.
Bài thơ “Hồn xưa” phải chăng cũng là nỗi buồn của một thuở ấy? Tôi cảm thấy cái vật vờ trong tâm trạng tác giả:
                        Bóng người đi nương theo chiều lá đổ

Hình như nỗi buồn thấm sâu quá “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Nguyễn Du), cho nên sống ngay giữa thành phố của mình, người đời thì ca ngợi hết lời “vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được/Dáng dịu dàng và những nét trầm tư”, đến nỗi “cả nước” muốn “ôm Huế vào lòng” vậy mà dưới cái nhìn của Nguyễn Xuân Hoa, thấy Huế thật buồn:
                        Thành phố đẹp nửa đời hoang phế
                        Buổi sớm mai chưa chải tóc, soi gương.
Tôi đã có đọc đâu đó những câu thơ buồn về thành phố hoang phế: “Hoàng Thành xưa có còn đâu/Phủ rêu ngày tháng xanh màu thời gian/Ngọc kia nước đã cuốn tràn/Tường xiêu, mái đổ bóng hoàng hôn buông”.
Song câu thơ này của Trà My (Cảm nhận Huế) mới thật đau
                        Nghe có tiếng hát thầm như lời tri âm
                        Nghe tiếng thở dài của thành phố buồn đang giấu nước mắt.
Buồn đau đến thế mà không gạt bỏ, tác giả vẫn “cầm tay thành phố buồn đi trong mưa”, như một người tri âm, để mong tìm trong đó cái hồn man mác yêu thương của Huế:
                        Ngồi với thành phố giữa đêm mưa
                        Chờ một giờ hạnh ngộ với trăng/mênh mông trời của Huế

Dù tác giả rất biết thuở hoàng kim của Huế đã xa rồi. Bây giờ dựng lại cảnh xưa cho hội Huế nay, Nguyễn Xuân Hoa như vẫn cầm nắm được những mất mát đã qua:
                        Quân vương một thuở mờ sương khói
                        Ngọc bội ngàn xưa đã nát tan
                                                                (Ghi từ buổi tập lễ hội Nam Giao).
Bứt mình ra khỏi thành phố thương yêu, Trà My vẫn buồn giữa bạn bè:
                        Đời cũng chật không hơn bàn tiệc
                                                             (Đêm rượu Nguyên Tiêu)
Với mình Nguyễn Xuân Hoa cũng có lúc thấy buồn, và không thoát mình ra khỏi nỗi buồn ấy, mặc dù cảm thấy sắp chia tay với thực tại:
                        Có đôi  lúc con tưởng mình sắp chạm phải hư vô
                        Thấy mấp mé giữa hai bờ hư thực
                        Những nỗi đau của cuộc đời vẫn không thôi ray rứt
                                                        (Thơ viết trước ngày giỗ Ba)

Có lúc Nguyễn Xuân Hoa đã chạm phải “vô thường”, ta như đang nhìn thấy anh ngán ngẩm lắc đầu:
                        Đã biết lên kia cánh cửa đời
                        Là thôi
                        Cát bụi với trùng khơi
                        ...
Tỉnh ra lòng vẫn đau như xót
                        Vang vọng ngàn xưa tiếng thở dài.

Tôi lật từng trang Thơ Trà My, để xem tác giả buồn thế thì Nguyễn Xuân Hoa sẽ lý giải nỗi buồn ấy là sao. Anh đã tìm ra cái lẽ nghiệt ngã ấy: “Sự nghiệt ngã của cuộc đời như hoa hồng/Đẹp và có gai, làm sinh sôi mọi niềm hạnh phúc/ làm đau một đời người”, tôi vẫn thấy không đủ. Đến khi đọc đến bài “So sánh bừa”, một bài thơ có tứ hay, mạnh bạo, mới tìm thấy cái lý buồn chân thật của tác giả Trà My:
                        Anh giống chúa hai điểm
                        Không bao giờ chịu ném đá vào cuộc đời
                        Nhưng dễ bị cuộc đời đóng đinh mình
                                                                 (So sánh bừa)

Hoá ra là thế. Cuộc đời mới éo le làm sao. Đúng là “cây muốn lặng, gió chẳng dừng”. Nguyên nhân của nỗi buồn không gì khác, chính là con người trong cuộc đời này. “Tiếp sau nụ cười là bao điều giả trá”, “Muốn sống tốt không dễ gì được tốt/ Vì quanh ta quỷ đội lốt người”.
Gấp tập “Thơ Trà My” lại, tôi thấy vui. Vì thơ là sản phẩm của những nỗi buồn. Như bạn bè thường nói: buồn mới là thơ. Những câu thơ buồn thấm thía là những câu thơ hay “Thương nhau lên cửa tò vò nhìn nhau/Anh đi đó, anh về đâu/Cánh buồm nâu/Cánh buồn nâu/Cánh buồm” Nguyễn Xuân Hoa cũng có những câu thơ buồn như thế khi anh viết về đất nước mình:
                        Thiếu phụ tiễn chồng ra trận
                        Đêm trở về nằm gối nửa vầng trăng
                                                               (Đất nước tôi)

Thơ là sản phẩm của nỗi buồn nhưng nó là một toà biệt thự thiêng liêng. Bởi nỗi buồn chính là hiện thân của con người. Bởi nó là sự cô đọng nhất, tinh tuý nhất của tâm hồn. Rất mừng chính những câu thơ buồn nhất của Nguyễn Xuân Hoa là những câu thơ thật hay, rút ruột ra mà viết thành lời. Thơ buồn của anh đã cập bến thơ. Hay nói cách khác, thơ Nguyễn Xuân Hoa đã có những câu cập bến bờ thiêng liêng vậy. Thơ hay là một khổ công. Dễ dãi với thơ là coi thường thơ đấy. Xin đừng ai đùa dai với thơ như thỏ  kia bỡn cợt với bóng trăng vậy.
Y.C
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LƯƠNG AN

    Như chúng ta biết, từ lâu rồi mối tình bạn giữa Miên Thẩm và Cao Bá Quát đã được xem như một quan hệ ít có, từ tri ngộ văn chương mà vượt lên sự cách biệt của hai tầng lớp xã hội, sự rẽ đôi của hai khuynh hướng tư tưởng và hai đường đời.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    (Đọc tập thơ Mật ngôn của Lê Huỳnh Lâm, Nxb Văn học, 2012)

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Lâm tuổi Bính Tý (1936), năm nay đã 76 tuổi, xếp vào hàng “xưa nay hiếm”, nhưng mãi đến nay anh mới đến được Suối tiên tắm (Nxb Văn học, 2012).

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Tôi quen biết Thái Kim Lan cũng đã gần 40 năm nay, một thời gian dài thấm đẫm nhiều kỷ niệm ở đủ mọi phương diện: công việc, thưởng thức nghệ thuật và cả… chuyện đời.

  • VŨ NGỌC PHAN
              Trích hồi ký

    ... Tôi viết Nhà Văn Hiện Đại từ tháng 12-1938 đến cuối tháng giêng 1940 thì xong lượt đầu, tất cả 1650 trang trên giấy học trò.

  • HỒ THẾ HÀ

    “Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
    Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

                             J.Leiba

  • HỒNG NHU

    (Đọc Vùng sâu - tiểu thuyết của Tô Nhuận Vỹ - Nxb Hội Nhà văn 1-2012)

  • NGÔ MINH

    Sau gần một năm chuẩn bị, sưu tầm tài liệu, lo “chạy” kinh phí, đến giữa tháng 6-2012, Hải Kỳ tuyển tập(*) đã ra mắt độc giả. Tuyển tập dày 596 trang do nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo vẽ bìa rất bắt mắt.

  • ĐẶNG TIẾN

    Kỷ niệm 3 năm ngày mất nhà thơ Tế Hanh (16.7.2009 - 16.7.2012)

  • PHẠM TUẤN KHÁNH - VŨ THANH

    Trong văn học Việt Nam thế kỷ XIX có một nhà thơ được "thần siêu" coi là "bạn băng tuyết" và được văn nhân Trung Quốc đương thời gọi là "thi hào" - Đó là Đặng Huy Trứ. Sự nghiệp chính trị và văn học của ông vào giai đoạn đó khá nổi tiếng và được đề cao nhưng đến nay vẫn ít người biết đến.

  • NGUYỄN ĐÌNH NIÊN

    (Trích từ “Kinh nghiệm về thân phận làm người trong thơ Hàn Mạc Tử”, Nxb. Southeast Asian Culture and Education (SEACAEF) 2009).

  • LÊ HUỲNH LÂM

    Mỗi người bước vào cõi thơ ắt hẳn sẽ để lại dấu ấn bằng mỗi phương cách khác nhau. Có người đi vào thơ ca qua những cuộc chiến, có người dùng chính đôi bàn chân mình, hay đôi tay mình, cũng có người bước vào thơ bằng chiếc xe đạp hay xe gắn máy,… nhưng tất cả đều đến với thi ca bằng trái tim.

  • Giải thưởng Nhà nước ra đời từ năm 1996. Đến nay Huế đã có 8 người nhận được giải thưởng danh giá này. Ngoài các nhà văn Thanh Hải, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ; Tổng Biên tập đầu tiên của Sông Hương - nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng đã nhận Giải thưởng Nhà nước.

  • PHAN NGỌC THU

    Từ sau năm 1975, văn học nước ta nói chung, văn xuôi nói riêng đã có nhiều chuyển biến trong cách tiếp cận với đời sống và ngày càng có xu hướng quan tâm hơn đến những vấn đề thuộc về chiều sâu của giá trị con người.

  • LÊ HUỲNH LÂM 
    (Đọc tập thơ “Những con chim của bóng tối” của Phạm Tấn Hầu - Nxb Văn học 6/2011) 

    Tôi một mình, lũ pharixêu múa rối
    Sống đến tận cùng, đâu phải chuyện chơi.

                            Bôrix Patecnax

  • MAI VĂN HOAN

    Trần Nhân Tông sinh năm 1258, lên ngôi năm 1279. Vừa mới lên ngôi, chàng trai 21 tuổi đã phải đối mặt với âm mưu thôn tính nước ta lần thứ hai của giặc Nguyên Mông.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY  

    Trong nhiều tư cách, lãnh tụ Hồ Chí Minh còn được vinh danh là một triết gia. Hơn thế nữa, là “triết gia vĩ đại” như đánh giá của một học giả nước ngoài qua Hội thảo Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay vào tháng 5/2010.

  • TRÀNG DƯƠNG

    (Ðọc Phù Hoa, truyện thơ Văn Cát Tiên - Nxb Văn Học, 2011)

  • NGUYÊN SA(*)

    Từ những ngày còn theo học triết lý tại đại học Sorbonne tôi đã mơ hồ nghĩ mỗi dân tộc bao giờ cũng có một nền triết học riêng. Bởi vì, triết học, trên mọi bình diện nào đó, rút lại, chính là ý thức được hệ thống hóa và thuần túy hóa, là một tổng hợp nhân sinh quan và vũ trụ quan.

  • Có lẽ nếu không có bài thơ "Đây thôn Vỹ Giạ" thì vùng đất xinh xắn kia cũng không nhiều tao nhân mặc khách ghé thăm đến vậy. Nhắc đến bài thơ này người ta sẽ nhớ ngay đến một mối tình điển hình cho sự nuối tiếc bâng khuâng và dường như nó là phông nền của cái đẹp. Bây giờ người thiếu nữ áo trắng xưa vẫn được sương khói của thôn Vỹ giăng phủ khiến bài thơ bản mệnh của Hàn thi sĩ vẫn miên man trong tâm thức của nhiều thế hệ yêu thơ.