1. Biết đâu địa ngục thiên đường là cuốn tiểu thuyết được đánh giá thành công nhất trong nghiệp văn của Nguyễn Khắc Phê. Thai nghén va hoàn thiện trong hơn hai mươi năm (1987-2007), tác phẩm là những dồn nén và trải nghiệm sâu sắc của tác giả về cuộc đời, con người và dân tộc. Tác phẩm mang tính chất tự truyện, xoay quanh những nhân vật thuộc dòng họ Nguyễn Khắc nổi tiếng(**). Tuy nhiên, thông qua bi kịch cá nhân - gia đình, người đọc được sống lại và chiêm nghiệm về những năm tháng đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Đó là giai đoạn cải cách và thời hậu chiến - một thời kỳ đầy nhạy cảm, cũng có thể gọi là một “vết thương” trong lòng của một thế hệ đã qua. Những vấn đề lớn về cá nhân con người và vận mệnh dân tộc đã được tác giả lý giải khá thấu đáo trong tác phẩm này. 2. Nếu sứ mệnh của tiểu thuyết là mở ra những vùng mờ, mà chính trị và lịch sử đã cố tình che đậy, thì có lẽ Biết đâu địa ngục thiên đường đã phần nào hoàn tất sứ mệnh ấy. Bằng một lối viết chiêm nghiệm, giàu chất suy tưởng, triết lý, Biết đâu địa ngục thiên đường đã lật lại nhiều vấn đề của quá khứ lịch sử Việt Nam - những vấn đề tưởng chừng đã qua, nhưng vẫn còn đó, day dứt, đớn đau…
Mượn cảm hứng từ câu Kiều “Biết đâu địa ngục thiên đường là đâu”, Nguyễn Khắc Phê đã đặt ra những vấn đề sâu sắc về sự tồn tại của con người, mà trên hết, đó là thái độ lựa chọn của cá nhân trước hiện thực lịch sử. Cuộc sống có phải là những lựa chọn khác nhau? Tính chủ quan của cá nhân hay tính tất yếu của hoàn cảnh lịch sử sẽ quyết định đến số phận một đời người? Qua nhân vật chính là Tâm - người đọc có thể rút ra những chiêm nghiệm sâu sắc: Lựa chọn nào cũng có những đau đớn, những trả giá? Thiên đường là đây, mà địa ngục cũng là đây… Tâm vốn là một trí thức, một giáo sư triết học, từng tốt nghiệp đại học Sorbonne, giảng dạy ở Đại học Đà Lạt. Nhân vật trải qua với biết bao thăng trầm, đớn đau trong cuộc đời: dứt tình với một nữ sinh Đồng Khánh, chối từ cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp đặt, trốn chạy cách mạng, rồi bị cải tạo, bị dư luận hoài nghi, lên án… Với thái độ chính trị “mập mờ”, tín ngưỡng tôn giáo “phức tạp”, Tâm đã gây ra bao hệ lụy đớn đau, thậm chí dẫn đến bi kịch cho dòng họ Nguyễn - một dòng họ thuộc vào hàng “danh gia vọng tộc”. 3. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây sự chú ý của các nhà phê bình và bạn đọc. Trên mười bản tham luận đã được gửi tới trước buổi tọa đàm. Các tác giả đã tập trung vào bốn chủ đề sau: Thứ nhất, từ phương diện người trí thức, Mai Văn Hoan, Như Yến, Phan Tuấn Anh đã nêu lên những bi kịch con người trong tình huống éo le của lịch sử. Trên cơ sở đó, các tham luận đã khái quát lên những vấn đề gay cấn của dân tộc Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử trước và sau chiến tranh. Thứ hai, từ phạm trù triết học và tôn giáo, các tác giả như Hồ Thế Hà, Trần Quốc Bảo, Minh Nhi, Trúc Linh đã rút ra những chiêm nghiệm sâu sắc về sự tồn tại của con người… Thứ ba, từ phương diện tư duy và nghệ thuật tiểu thuyết, Phạm Phú Phong, Trần Huyền Sâm, Nguyễn Văn Hùng đã nhận diện những yếu tố cách tân trong tác phẩm Biết đâu địa ngục thiên đường của Nguyễn Khắc Phê (độc thoại nội tâm, dòng ý thức, tính đối thoại và tính liên văn bản…). Thứ tư, tham chiếu tác phẩm từ góc độ diễn giải và phân tâm học, tác giả Ngô Hương Giang và Trần Mạnh Tiến đã tìm ra những thông điệp trái chiều trong tác phẩm: Con người là gì, đâu là tính thiện và ác? Liệu những phức cảm phân tâm của nhân vật, có phải là nguyên nhân tạo ra những lựa chọn khác nhau trong cuộc đời? Tóm lại, các bản tham luận đã soi chiếu tác phẩm từ nhiều góc độ khác nhau, và đi đến một nhận định thuần nhất: Biết đâu địa ngục thiên đường là một cuốn tiểu thuyết có giá trị nhân văn sâu sắc, có những cách tân độc đáo về nghệ thuật. 4. Buổi tọa đàm đã diễn ra rất sôi nổi. Nhà văn Tô Nhuận Vĩ, Hồng Nhu, Vĩnh Nguyên, PGS.TS Bửu Nam, Nguyễn Thị Bích Hải, thầy giáo Trần Văn Hối, Trần Hoàng, nhà báo Ngọc Quỳnh… đã phát biểu những ý kiến xúc động, tâm huyết của mình về tác phẩm này. Các ý kiến đều cho rằng, đây là một cuốn tiểu thuyết có sức nặng tư tưởng, nó xoáy sâu vào những vấn đề nhức nhối của một thế hệ đã qua. Buổi tọa đàm cũng dành một phần giao lưu khá thú vị và gay cấn giữa nhà văn Nguyễn Khắc Phê với bạn đọc. Phần lớn, độc giả đều thắc mắc: đây là một cuốn tiểu thuyết có tính tự truyện, cốt truyện và nhân vật chính đều dựa trên những con người có thật trong gia đình dòng họ Nguyễn Khắc, nhưng vì sao không thấy bóng dáng của nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện, nhà giáo Nguyễn Khắc Phi? Nguyễn Khắc Phê cho biết, vì hai lẽ: Thứ nhất, đây không phải là một cuốn tự truyện (Autobiographie), nên không nhất thiết phải miêu tả toàn bộ sự kiện và nhân vật chủ yếu của dòng họ Nguyễn Khắc, nhà văn có quyền fiction (hư cấu) theo dụng ý nghệ thuật của mình. Thứ hai, tác giả dự kiến sẽ dành riêng một cuốn tiểu thuyết cho nhân vật Nguyễn Khắc Viện - nhà văn hóa, bác sĩ, người đã dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp, từng đoạt giải Francophonie của Viện Hàn lâm Pháp. Ngoài ra, Nguyễn Khắc Phê cũng đã nhấn mạnh với độc giả rằng, chủ đề của tác phẩm không chỉ là vấn đề trong cuộc “Cải cách” mà nhiều tác phẩm khác đã viết, sâu xa hơn, đó là bản thể con người ở vào mọi thời đại. Tác giả cũng tỏ ra dụng công với những trang viết về hồn quê, tập tục của truyền thống văn hóa, thông qua đời sống của một gia đình quan lại Việt Nam trước 1945. Bạn đọc sẽ chờ đợi một cuốn tiểu thuyết “Hậu thiên đường và địa ngục” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê. Hy vọng ở đó, chúng ta sẽ được chiêm nghiệm những cảnh đời, số phận khác nhau trên hành trình đi đến “địa ngục” và “thiên đường” - một hành trình có thể gọi là vô tận của nhân loại. T.H.T (261/11-10) |
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.