Tô Châu “thiên đàng” trên mặt đất

15:52 20/03/2009
VI THÙY LINH           Tuỳ bútNgười Trung Quốc (TQ) có câu: “Trên trời có thiên đàng, dưới có Tô Châu, Hàng Châu”. Chỉ thoạt nghe, đã thấy người ta thật tự hào, về cảnh đẹp thành phố (TP) này đến thế nào, trên đất Đại lục dày đặc thắng cảnh, di tích, kỳ quan của Trung Hoa cẩm tú.

* Lịch sử của “thiên đàng”

Đông qua, xuân vừa đến, khi Bắc Kinh lạnh lẽo, Oo C, trời  còn tuyết, thì vùng Giang lại ấm trời, muôn vàn hoa lá khoe sắc. Tôi chợt nhớ đến một bài thơ tình của Nguyễn Quang Thiều ở đó ông nhấn mạnh nỗi khao khát người yêu, cô gái sau những đêm lạnh, mùi thân thể nóng lên, lại qua một đêm ấm trời... Hẳn hoàng đế Càn Long xưa cũng đã có nỗi khao khát ấy, nên ông hay vi hành xuống vùng Giang có khi là lấy cớ vi hành mà đi chơi, cho thỏa, vì vùng này nổi tiếng cảnh đẹp, gái đẹp. Người ta truyền nhau “Ăn Quảng Châu, chơi Hàng Châu, ở Tô Châu, chết Liễu Châu” - xếp bốn TP này ở vị trí thượng đẳng của sự hưởng thụ, thì một nửa đã thuộc vùng Giang Nam. Tô Châu (thuộc tỉnh Giang Tô), diện tích 8.000 km2, nổi tiếng vì lụa, gái đẹp, những mỹ viên (vườn đẹp) lộng lẫy. Hàng Châu (thuộc tỉnh Triết Giang), dân số bằng Tô Châu nhưng diện tích lớn gấp đôi, được coi là hòn “ngọc sáng” của phương Nam, TP có an ninh trật tự tốt nhất, vừa có gái đẹp, lại có trà ngon - Long tỉnh - tiến vua, những kỷ niệm mà Kim Trọng đi tìm Thuý Kiều và sông Tiền Đường nơi Kiều đã gieo mình thoát chết. Chắc bạn sẽ hỏi, sao TQ nhiều châu thế, địa giới hành chính xưa được chia làm các “châu” - tương đương một huyện, nhưng huyện ở TQ lớn như một TP của Việt Nam (ở VN, vẫn còn địa danh tên châu như Phong Châu, Lai Châu...)

Ngày nay, các “châu “ xưa đã thành những TP nổi tiếng: Quảng Châu, Thương Châu (kinh đô Tây An - Thiểm Tây xưa). Khâm Châu, Phúc Châu (miền biển), Chu Châu, Hoàng Châu, Lan Châu. Quả như nghĩa ẩn của từ “châu” - những TP trên như những viên ngọc, dù kích cỡ độ quý khác nhau, nhưng đều có giá trị.

Nằm ở hạ lưu sông Dương Tử, Tô Châu hình thành từ 2.500 năm trước, 514 năm trước Công nguyên, đến nay TP vẫn còn nhiều địa danh lịch sử và di chỉ văn hoá. Thời Tam Quốc, đây là đất thuộc Ngô của Tôn Quyền, trong chế chân vạc: Ngụy ở Trung Nguyên, Thục ở Tây Vực, Ngô ở Giang Đông. Đây là nơi Gia Cát Lượng đến tá túc mà Chu Du trước khi ức mà chết còn ngẩng mặt than “Trời đã sinh ra Du sao còn sinh Lượng!”; là đất Việt của Câu Tiễn với mưu “Phạt Ngô thất thuật” (của Văn Chủng), của khổ nhục kế nuôi chí giành lại giang sơn. Có từ thời Xuân Thu, nhưng đến năm 589 sau Công nguyên, TP mới mang tên Tô Châu, và trở thành một thủ đô công nghiệp, thương mại ở vùng biển phía Đông nam TQ vào thế kỷ IX, khi con kênh đào nối Bắc Kinh với Giang Nam được hoàn tất. Thi sĩ Bạch Cư Dị, khi trấn nhậm Tô Châu (làm tri phủ từ năm 825) đã mở rộng kênh đào này để phát triển du lịch. Tư duy gìn giữ di tích, mở mang xây dựng cảnh đẹp để làm du lịch, là một tư tưởng nhân văn có từ sớm của các vĩ nhân TQ vừa phục vụ nhu cầu hưởng thụ, tiêu dao ngao du sơn thuỷ, vừa giữ được vẻ đẹp lưu truyền hậu thế. phát triển huy hoàng nhất dưới thời của triều đại Minh, Thanh, với hệ thống ngự viên xây dựng khắp nơi, nhưng TP bị tàn phá từ thế kỷ 13, 14 khi quân Nguyên Mông tràn sang, rồi sau này là quân nổi loạn Thái Bình Thiên Quốc (1860), Nhật (1937). Khác với VN, để các di tích, thắng cảnh tàn lụi luôn rồi mất hẳn vì không phục dựng kịp thời chỉ lo cơm áo; ở TQ, chính quyền vua quan, các đại gia phục hồi ngay lại công trình tất cả bằng tâm huyết, sự khéo léo, công phu, chịu chơi và tình yêu với xứ sở mình, làm đẹp nó để thế giới phải tôn vinh nó.

* Venise của phương Đông


Khó và lệch khi so sánh, nhưng không thể không so sánh những nhà vườn nổi tiếng của Huế mà tôi đến, với một nhà vườn bất kỳ ở Tô Châu, (chứ chưa nói đến các vườn lớn, tiếng tăm). Nhà vườn ở Huế, thường bị lệch: được vườn thì nhà xấu, không hoà hợp, được nhà ruộng đẹp thì vườn cằn, đơn điệu, không tôn được nhau lên. Ở TQ, đâu đâu cũng nhiều hoa lá, màu xanh, những khu vườn. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Không có nơi nào dưới vòm trời này đẹp bằng các khu vườn ở hạ lưu sông Trường Giang, thế mà vườn ở Tô Châu lại đẹp hơn tất cả”. Bắc Kinh cũng có nhiều nhà vườn và những khu vườn lớn, nổi tiếng nhất là Di Hoà viên và vườn của Hoà Thân (vị quan dưới thời vua Càn Long, mưu mô, tham nhũng, mua quan bán tước). Khác với vườn thượng uyển ở Bắc Kinh, vườn Tô Châu mang dấu ấn cá nhân của các quan chức, thư lại về hưu, các học giả... Những vùng chuyển tới TP này để hưởng thụ những năm tháng đẹp nhất đời mình, gắn với thiên nhiên, quên ồn ã mệt nhọc đời thường. Với ý tưởng đó, vườn đều tách biệt với thế giới bên ngoài bằng những bức tường trắng. Trong sự yên tĩnh lạ thường, khu vườn thường có đủ đồi, hồ nước, đình tạ, tháp, đá, hoa, cây cảnh và dãy hành lang tạo thành tổng thế kiến trúc. Mỗi khu vườn đều có vẻ độc đáo, kiến trúc trong nhà với đặc điểm riêng, như một thiên đường nhỏ.

Đến Tô Châu mùa xuân, bạn bị ngợp bởi cảnh sắc rực rỡ, sinh khí trỗi dậy mùa sinh sôi, nhưng khi thu về, Tô Châu lai đẹp như một nàng kiêu sa khuê các mà si tình. Lá phong vàng đi, tiết thu dịu mát, những quả lựu đỏ rực, đỏ như không thể đỏ thêm được nữa ở Sư tử viên mới hôm nào đầu hạ “đầu đường lửa lựu lập loè đâm bông”. Nếu sông Seine chảy trong lòng Paris với hàng ngàn cầu đá cổ, thì Tô Châu cũng có hàng ngàn cầu bắc qua kênh đào. Hãy lên thuyền du ngoạn trên kênh, cầu đủ cao để thuyền chui qua rồi miên man trong khi khách mê mải ngắm muôn vàn cảnh đẹp, người xinh hai bên bờ đô thị cổ, cảnh này đã xuất hiện trong phim Tuý Quyền vô địch phát trên VTV3 tháng 10, 11 vừa qua. TQ có nhiều kênh đào như thế, nhưng dường như Tô Châu đẹp nhất vì nhiều lẽ.

*TP vườn

Tô Châu dẫn đầu TQ về số lượng và chất lượng nghệ thuật của các vườn cổ, trên 200 vườn từ TK 4 đến TK 18, 1/3 số đó được bảo tồn nguyên vẹn đến nay, trong đó 9 khu vườn được UNESCO công nhận là di sản; chỉ khu phố cổ Tô Châu đã có 6 thắng cảnh xếp hạng di sản nhân loại. Phố Tô Châu xanh bóng cây, long lanh muôn hoa trong vườn trên hè phố, khắp phố chính là panô hình ảnh các nhà vườn được xếp hạng di sản thế giới, khu vườn ấy là nơi phản ánh tâm hồn, trí tưởng tượng, tình yêu thiên nhiên, kết hợp với văn học, triết học và nghệ thuật.


Ngay ở trung tâm phát triển, Tô Châu cũng không có nhà cao quá 5 tầng. Không khí cổ xưa, huyền thoại đưa du khách vào chốn phiêu bồng, tinh khiết, với những ngôi nhà tường trắng mái đen độc đáo mà nho nhã như tranh thuỷ mạc, bồng bềnh trên sông - kênh như bàn cờ uyển chuyển. Long não là cây đặc trưng của TP này. Xưa, nhà nào sinh con gái thì trồng cây long não trước nhà, nhìn cây thấp cao là biết nhà đó có con gái nhỏ hay lớn. Bạn không chỉ được chiêm ngưỡng nghệ thuật xây dựng nhà vườn - hiển thị là tác phẩm vườn bất tử - mà đi trong Tô Châu, là được sống lại, sống cùng người xưa, nhìn thấy tiếng đàn, giọng bình thơ, những dấu giày in trên lối đá quanh co của các khu vườn kỳ hoa, dị thảo hay những mê cung bằng đá ảo diệu, cảnh vịnh nguyệt đề thơ được những mái thuỷ tạ cong cong thấp thấp thoáng bóng mỹ nữ bên hàng thuỳ liễu.

Tô Châu có 2 trong 4 khu vườn nổi tiếng nhất TQ: Sư tử viên Lưu viên (vườn của nhà họ Lưu). Nhịp sống TP vốn thanh thản, nhẹ nhàng, vào đến hai khu vườn này, lại như được đến một thế giới khác: cổ xưa. Nhà cửa, bàn ghế cổng lầu gác soi hồ cá vàng. Ở Sư tử viên, có trận đồ bát quát của Khổng Minh mà chủ nhân xưa sắp xếp những tảng đá tạo thành, khách vào bị lạc. Vua Càn Long từng lạc lối ở đây.

* Kinh đô tơ lụa

Ở Tô Châu, vẫn còn nhà máy dệt lụa cổ truyền. Lụa Tô Châu là thương hiệu tầm thế giới, như vườn nơi đây, nổi tiếng từ nghìn xưa. Sản phẩm thủ công vẫn bán cho khách bốn phương, bên cạnh tơ lụa xuất khẩu cao cấp dệt bằng công nghiệp. Như thấp thoáng bóng Tây Thi, một trong tứ đại mỹ nhân TQ thời cổ, quê huyện Vô Tích (cách Tô Châu 40 km), cũng là vùng ươm tơ dệt lụa bên dòng Hoãn Sa. Mặc lụa Tô Châu, vừa sang lại đẹp yêu kiều, thứ lụa chỉ nghe, đã mềm lòng, say mê, chưa nói đến nhìn, chạm tới.

* TP thi nhân

Có nhiều danh nhân đã sinh trưởng hoặc từng sống ở đây, như: Hạp Lư - vua ngô, người đã hạ lệnh cho hai cận thần Ngũ Tử Tư và Tôn Võ xây dựng Tô Châu thành “Cái nôi văn hoá thời Ngô”; Ngôn Yên, một trong mười học trò lớn của Khổng Tử; hai anh em Tôn Quyền, Tôn Sách; nhà thư pháp Trương Húc, nhiều họa sĩ (tranh thuỷ mạc), văn nhân...


Ở đây, còn  có chùa tháp cổ đa giác, do Tôn Quyền xây tặng mẹ và chùa Hàn San - một điểm đến không thể thiếu của các tour du lịch. Chùa cổ này nổi tiếng không chỉ vì tình bạn của hai thiền sư trụ trì Hàn San-Thập Đắc, mà còn vì bài Đường thi “phong kiều dạ bạc” viết trong một đêm trăng ở chùa Hàn San đã lưu dấu Cô Tô (một tên khác của Tô Châu) muôn đời của Trương Kế: “Trăng tà tiếng quạ kêu sương/ Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ/ Thuyền ai đậu bến Cô Tô/ Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San” (nhiều người tưởng là Tản Đà dịch, nhưng thực ra là do Nguyễn Hàm Ninh (1808 - 1867), bạn thân của Cao Bá Quát dịch). Du khách thường bỏ ra vài tệ để được lên lầu cổ gióng lên hồi chuông thuỷ trong đêm khuya tĩnh mịch. Thực ra, chùa không nằm trong danh sách di sản thế giới và không đẹp lắm, nhưng lâu đời. Chùa Hàn San được xây dựng từ đầu thế kỷ VI với tên ban đầu là Diệu Lợi tự, về sau được gọi là Phong Kiều tự, do có sư trụ trì là Hàn San nên đổi thành Hàn San tự.

Tô Châu nổi tiếng còn vì Bạch Cư Dị, một trong những thi hào lớn nhất thời Đường, đã để lại dấu ấn sâu đậm khi góp phần ở TP này, với hai công trình: Tô đê, Bạch đê cho nông nghiệp và vì quá yêu viết nhiều thi phẩm ngợi ca TP. Để rồi cho đến nay, sau hơn 1000 năm, những bài thơ của Bạch Cư Dị vẫn bất hủ cùng những áng thơ tuyệt tác của Tô Đông pha.

Mùa xuân đến, khi “cỏ non xanh rợn chân trời tôi lại mơ vườn Thúy tình yêu như Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” tìm Kim Trọng.

“Đạp thanh” - bước lên cỏ xanh mơn mởn, cây lá bầu trời xanh biếc, thì càng yêu đời, khát sống. Ngô đồng đang vươn lộc non khắp Tô Châu, và tất cả thanh xuân trở lại, thanh xuân lần nữa khi đạp thanh trên xứ sở thiên đàng.

V.T.L
(197/07-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VALENTIN HUSSON    

    Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.

  • HIỀN LÊ

    Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.

  • Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN  

    Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.

  • JEAN-CLET MARTIN   

    Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.

  • Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.

  • MARKUS GABRIEL   

    Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.

  • ĐỖ LAI THÚY  

    M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

  • THÁI THU LAN

    Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.

  • NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG

    Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.

  • ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)

    Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.

  • LƯU TÂM VŨ
                hồi ký

    LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.

  • Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.

  • ALAN BURNS      

    William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

  • Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.

  • NHƯ QUỲNH DE PRELLE  

    Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.

  • HÂN QUY

    (Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.