Tình mẫu tử trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

15:15 16/04/2008
Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…

Trên hành trình thi ca của mình, chị đã không dừng lại ở những bài thơ làm rạng danh một thời ấy. Con người thơ của chị luôn khát khao dâng hiến, tìm tòi và mang đến cho thơ những nguồn cảm xúc mới mẻ, ngọt ngào và sâu lắng. Trái tim đa sầu, đa cảm của một người phụ nữ, một người mẹ đã rung lên những nhịp đập bồi hồi để rồi cất lên trong thơ chị những giai điệu mới làm xúc động lòng người - giai điệu của tình mẫu tử. Khảo sát 194 bài thơ trong 6 tập thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, chúng tôi thấy có 21 bài thơ viết về đề tài này, chiếm tỉ lệ 10,82%. Phần lớn các bài thơ này đã được chị tập hợp lại trong tập thơ Mẹ và con, in chung cùng con gái Hoàng Dạ Thi, một số bài còn lại được in rải rác trong các tập thơ Đề tặng một giấc mơ, Hồn đầy hoa cúc dại… Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng, sâu nặng  của con người, thứ tình cảm máu mủ, ruột rà, sâu nặng ấy thật  không dễ diễn đạt bằng lời, ấy thế mà Lâm Thị Mỹ Dạ đã thật khéo léo chuyển tải những tình cảm thiêng liêng ấy vào trong những vần thơ của mình. Chị đã làm tròn bổn phận của một cái tôi trữ tình biện chứng, đúng với quy luật cuộc đời -  cái tôi trữ tình ấy khi đóng vai là một người mẹ, khi lại đóng vai là một người con. Chính vì thế, tình mẫu tử trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là thứ tình cảm toàn diện, trọn vẹn, chân thành, thắm thiết, là món quà vô giá mà chị đã mang tặng cho người mẹ kính yêu và những đứa con thơ yêu dấu của mình. Những ai đã, đang và sẽ làm vợ, làm mẹ sẽ không khỏi bùi ngùi, xúc động trước những vần thơ chân thành, tha thiết của chị. Những vần thơ được vọng lên từ cõi lòng của một người mẹ hiền, một người con thảo,cõi lòng của một con người luôn trân trọng đề cao tình mẫu tử hơn bất cứ thứ tình cảm nào trong cuộc đời mình.
Những vần thơ chị viết về mẹ thật cảm động biết nhường nào. Cuộc đời cay đắng khổ cực của mẹ đã được chị ngậm ngùi kể lại: Người xưa nào có phụ tình/ Mà sao mẹ chịu một mình khổ đau/ Thác ghềnh nước cả, sông sâu/ Chống chèo mình mẹ đương đầu bão giông/ Buồn lo mẹ giấu bên lòng/ Nuôi em trong dạ, mẹ mong từng ngày/ Nỗi mình biết ngỏ ai hay/ Bao đêm nước mắt vơi đầy, mẹ ơi/ Khi em cất tiếng chào đời/ Trái tim mẹ tưởng héo rồi lại tươi” (Trái tim sinh nở). Đó là những vần thơ được viết ra từ bao trăn trở, day dứt, từ những vết thương lòng trong cuộc đời mình để lại. Tình thương mẹ vì thế như được nhân lên gấp bội phần. Lời thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ lúc này là tiếng lòng đồng cảm với nỗi khổ đau của người mẹ. Những câu hỏi tu từ cất lên làm nhức nhối tâm can mọi người, hơn ai hết, chị đã hiểu được những khổ đau của đời mẹ ngay cả khi chị chưa được sinh ra trong cuộc đời này.
Dẫu cuộc đời có nhiều cơ cực, khổ đau, nhưng nhà thơ đã hiểu được tình thương yêu của mẹ dành cho mình như biển rộng, sông dài không làm sao đong nổi: Mẹ yêu con cho dòng sông biết hát/ Cho những ngôi sao biết soi mặt đất cười/ Một tiếng gà sang canh mẹ lo con thức giấc/ Một buổi xa nhà mẹ nhớ con không nguôi…” (Nghĩ về mẹ). Tình cảm của mẹ dành cho con bao la đến vô cùng, vô tận, đã truyền sang cả đất trời, dòng sông, hoà cùng nhịp đập với trời đất mênh mông. Mẹ yêu con không phải chỉ lo cho con miếng cơm manh áo mà lớn hơn thế nữa mẹ đã cho con cả một tâm hồn, một tâm hồn biết lắng nghe những nhịp đập, hơi thở của đất, những vang động của đời, một tâm hồn biết lắng nghe tiếng hát của dòng sông, biết nhìn thấu nụ cười của những ngôi sao trên bầu trời xa tít tắp. Đó là thứ tài sản vô giá mà không phải bất cứ người nào cũng may mắn có được. Và không phải ai cũng dễ dàng nhận ra công lao của những người mẹ ở phía khuất lấp sâu kín và khó nhìn thấy ấy. Điều đó đã chứng tỏ sự tinh tế, nhạy cảm, sâu sắc của hồn thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Chính vì thế, chị đã có một ước mơ thật đẹp để đền đáp công lao của mẹ: Nếu lòng con là một khoảng trời xanh/ Thì ngôi sao sáng nhất là tình yêu của mẹ/ Ngôi sao sáng giữa đêm dài lặng lẽ/ Như nỗi nhớ thương mẹ gửi về con” (Nghĩ về mẹ). Người mẹ hiền luôn như vì sao sáng lung linh soi sáng suốt cuộc đời người con yêu dấu, ngôi sao biết cất lên những nụ cười làm ấm cả lòng người.
Thơ viết tặng mẹ của Lâm Thị Mỹ Dạ không chỉ dừng lại ở những tình cảm chân thành, thắm thiết, không chỉ dừng lại ở những niềm tâm sự rất đỗi riêng tư của mình, hơn thế nữa, đó còn là những vần thơ rất giàu chất triết lý, triết lý về con người, về cuộc đời được chị phát hiện ra trong những sự vật, hành động rất quen thuộc, gần gũi với mỗi người: Mẹ ngồi đãi thóc ban trưa/ Gió se se sóng bóng dừa nghiêng in/ Thóc vàng nước gợn thêm xinh/ Hạt chắc hạt lép mới nhìn giống nhau/ Cũng màu tơ khác gì đâu/ Mà sao mẹ đãi rất lâu, đãi hoài… Bao nhiêu hạt lép trôi đi/ Hạt chắc đậu lại nói gì mẹ ơi/ Ngày mai ra với cuộc đời/ Tay mẹ đãi  thóc phải lời dặn con?” (Đãi thóc). Công lênh của cuộc đời mẹ được nhà thơ ví như một cuộc đãi thóc, mẹ đã mang lại cho đời những hạt chắc để ươm mầm cho mai sau, để vườn đời luôn có những hoa thơm quả ngọt.
Lâm Thị Mỹ Dạ không những thấu hiểu nỗi lòng của mẹ mà còn thấu hiểu nỗi lòng của những đứa con thơ. Chị như nhịp cầu nối đôi bờ của một dòng sông, dòng sông của tình mẫu tử, để chia sẻ với mẹ, với ngoại những buồn vui của đời, làm dẫy lên những khát vọng trong lòng con, lòng cháu: Chuyện đời bà, bà kể cháu nghe/ Cháu nghe bà má đầy nước mắt/ Có con đường nào đi ngược chiều trái đất/ Đưa cháu đi tìm thời tuổi trẻ của bà?” (Thời tuổi trẻ bà đâu). Hướng con người tới những khát vọng cao đẹp, đó chính là giá trị nhân văn cao cả trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đặc biệt là những bài thơ viết về tình mẫu tử.
Khi đã được làm vợ, làm mẹ, hạnh phúc vỡ oà, trào dâng trong lòng người phụ nữ dịu dàng, nhân ái kia. Tình thương con như một nốt nhạc êm đềm ngân nga trong những bản tình ca của chị. Trắng trong là một bài thơ hay đã được phổ nhạc mà mỗi lần cất tiếng hát đều làm cho lòng người rưng rưng. Ở đó không chỉ có niềm yêu thương, hạnh phúc, tự hào mà còn có cả những lời dặn dò, nhắc nhở, những khát vọng làm người được gửi gắm trong cả những lời ru: Đôi làn môi con/ Ngậm đầu vú mẹ/ Như cây lúa nhỏ/ Nghiêng về phù sa/ Như hương hoa thơm/ Nghiêng về ngọn gió… Sữa mẹ trắng trong/ Con ơi hãy uống/ Rồi mai khôn lớn/ Con ơi hãy nghĩ/
Những điều trắng trong”. 
Tình cảm của mẹ dành cho con vô cùng lớn lao không thể nào tả xiết, Lâm Thị Mỹ Dạ thường mượn những hình tượng của thiên nhiên, đất trời, vũ trụ để nói thay nỗi lòng của mình: Con như sóng thích đổi thay/ Mẹ như bờ cát tràn đầy lặng im/ Mẹ như bờ cát con tìm/ Dạt dào lòng mẹ triệu nghìn sóng con… Không bờ biển sẽ ra sao/ Trăm con sóng biết nơi nào tìm vô/ Giang tay bờ mẹ đón chờ/ Yên lòng sóng cứ mộng mơ với đời/ Sóng vui nghiêng đổ ánh trời/ Oà vào bờ mẹ ngời ngời tin yêu” (Nghĩ về con như biển). Một sự so sánh thật độc đáo và thú vị. Biển và bờ vốn là những ẩn dụ quen thuộc trong thơ ca để ví như anh và em, như tình yêu của đôi ta, thì nay Lâm Thị Mỹ Dạ đã mượn nó để diễn tả tình yêu thương của mẹ dành cho con. Câu thơ kết thúc bài thơ mới ấm áp, hạnh phúc làm sao, mẹ sẽ luôn là điểm tựa vững chắc cho con để con được yên tâm vững bước vào đời với bao niềm tin yêu, hi vọng đang chờ con ở phía trước.
 Dường như như thế vẫn còn chưa đủ, chưa đầy, Lâm Thị Mỹ Dạ còn đặt ra bao giả thiết khác, vẫn là những hình ảnh của thiên nhiên, đất trời để ví với tình con và mẹ: Nếu mẹ bỗng tan thành ánh trăng/ Thì con ơi con hãy là đồng lúa… Nếu mẹ bỗng biến thành đồng cỏ/ Thì con ơi, con hãy là chú bê conNếu mẹ bỗng chảy thành dòng sông/ Thì con ơi, con hãy là ánh sáng… Nếu mẹ bỗng hoá thành cánh buồm/ Thì con ơi, con hãy là ngọn gió… (Nếu mẹ là). Nào là ánh trăng - đồng lúa, nào là đồng cỏ - bê con, nào là dòng sông - ánh sáng, nào là cánh buồm - ngọn gió, những cặp hình ảnh so sánh ấy là thứ ngôn ngữ vô tận vô cùng để khẳng định rằng không gì có thể chia cắt nổi tình cảm của mẹ dành cho con. Cho dù có những lúc mẹ không được ở bên con, nhưng mẹ vẫn luôn dõi theo con, soi chiếu cho bóng hình con được toả sáng trên bước đường đời mà con đang đi tới, vẫy gọi con đến với những chân trời bình yên, mơ mộng, rạng ngời.
Sinh con ra trong đời, mẹ không chỉ hạnh phúc vì có con, vì  được làm mẹ, làm thiên chức của một người phụ nữ mà xúc động hơn con đã truyền cho mẹ lòng nhân ái, tình yêu thương, bao dung với  cuộc đời: Những lời vô nghĩa của con/ Dạy cho mẹ nghĩa yêu thương cuộc đời” (Khi con nói chuyện).
Những ngày con còn bé thơ, lời ru của mẹ đã mang chứa cả bao tình thương yêu tha thiết, bao nỗi niềm đắm say, xúc động khó nói nên lời: Ngọt ngào mẹ hát ru con/ Như gió ru mảnh trăng non giữa trời/ Ngọt ngào là ngọt ngào ơi/ Như cây ru quả trong lời của chim” ( Ngọt ngào).
Tình thương yêu luôn đi liền với nỗi nhớ nhung khi phải xa con. Nỗi nhớ cứ ùa về, khắc khoải, thao thức khiến mẹ không yên lòng. Chẳng mấy khi được gặp gỡ, say sưa chuyện trò cùng bạn gái, tưởng như quên hết cả đất trời. Ấy thế mà rồi chị vẫn không quên sẻ chia nỗi nhớ con cùng những người bạn gái. Có điều, khi nỗi nhớ được sẻ chia nó đã bớt phần khắc khoải, trở nên  ngọt ngào, sâu lắng và dịu dàng hơn: Đêm nay thức cùng bạn gái/ Chia cùng tôi nỗi nhớ con/ Lòng tôi trải ra với bạn/ Mát lành như trái bầu non” (Với bạn gái).
Ngay cả khi con đã lớn khôn, phải xa con lòng mẹ cũng như rớm máu. Mỗi phút giây mẹ luôn nghĩ về con. Trong mắt mẹ con vẫn mãi là đứa trẻ thơ đáng được mẹ nâng niu, vỗ về, che chở: Bây giờ con đang ở rất xa/ Muốn cầm tay con không được/ Muốn vuốt tóc con không được/ Mẹ làm sao bây giờ… Chao! Con gái của tôi/ Đời - còn bao niềm vui/ Còn bao cạm bẫy/ Sao con cười hồn nhiên đến vậy/ Lim ơi!” (Gửi Bê Lim). Nụ cười hồn nhiên của con như mang cả bao nỗi khát thèm của mẹ. Làm sao trong cuộc đời nhiều cạm bẫy này mẹ có thể cất lên được một nụ cười hồn nhiên trong trẻo như thế. Nụ cười ấy sẽ theo mẹ suốt cuộc đời để xoá tan những buồn đau, muộn phiền trong lòng mẹ. Thế mới biết trái tim người phụ nữ phương Đông thương con đến mức nào, mọi nỗi buồn vui của cuộc đời mẹ đều gắn với bóng hình của những người con. Có con, niềm vui sẽ được nhân lên gấp bội, nỗi buồn sẽ vợi đi muôn phần.
 Mong muốn được sẻ chia với con như những người bạn được hiện rõ trong những vần thơ của chị: Khi con lớn lời yêu chớm nụ/ Mẹ nhớ mẹ xưa mắt sáng tóc thềSóng bạc đầu - mẹ bây giờ con hỡi/ Da diết vô cùng muốn trở lại mẹ ngày xưa” (Mẹ ngày xưa). Thi sỹ đã tìm thấy bóng dáng thời xưa trẻ của mình trong dáng hình của người con gái hiện tại. Một chút tiếc nuối, một chút nhớ mong, một chút khao khát muốn được trở về với thời xưa cũ. Thật giản dị và chân thành dù biết ước mơ ấy không bao giờ trở thành hiện thực. Nhưng những lời tâm sự của chị với con gái càng làm cho người đọc hiểu rõ hơn nhu cầu được sẻ chia, nhu cầu được xem con như những người bạn để cởi mở lòng mình, cho con nhìn thấy tâm hồn trẻ trung ẩn sau những nhọc nhằn, lo toan của đời mẹ. Đó là khao khát, mong muốn của một con người đã từng tự thú:
Ta thành trái mà hồn còn như lá.
Có những lúc Lâm Thị Mỹ Dạ đã xem con mình như một người bạn tri âm, tri kỷ, chị đã tâm sự với con mà cũng như đang độc thoại với mình để rút ra những chân lí của cuộc đời, những điều nghiễm nhiên mai sau con gái mẹ lớn lên sẽ phải hiểu, sẽ phải trải qua như đời mẹ lúc này. Trong những trường hợp này, lời thơ của chị chùng xuống, có phần trầm lắng hơn. Lời tâm sự như trút cả ruột gan, nghẹn ngào, xúc động và tràn đầy ý vị cuộc đời: Trái tim mẹ yếu mềm có sẵn/ Can đảm tới đâu cũng phụ nữ thôi mà/ Mẹ như chú lạc đà nặng nhọc/ Mà ốc đảo con sao mãi còn xa” (Viết về câu trả lời của con). Mẹ có một thời con gái/ Như tơ trời quá mong manh/ Mẹ sinh con là con gái/ Hạnh phúc niềm đau một lần… Tự mình phải hiểu mình thôi/ Làm thân con gái một đời/ Buồn lo lặn vào trong mắt/ Nụ cười cứ nở trên môi” (Một  thời con gái).
Bao giờ cũng vậy, trong những bài thơ viết về tình mẫu tử, Lâm Thị Mỹ Dạ thường gửi lại cho con, căn dặn các con những điều cần phải có,  những gì cần phải làm, cần phải hướng tới để các con được nên người. Những lời dặn dò, nhắc nhở của chị thật nhẹ nhàng, êm ái nhưng nó sẽ thấm sâu vào tâm hồn của các con, sẽ theo chúng suốt cuộc đời và trở thành thứ hành trang quý giá trong gia tài của những người con gái thương yêu: Trái cấm địa đàng/ Con ơi, chỉ ngắm/ Đừng như Eva/ Vội vàng môi cắn” (Một tuổi cho con).
“Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…”, vẳng đâu đây lời hát ấy còn vọng lại. Ta như được chứng kiến rõ hơn tình cảm trong ngần ấy của mẹ qua những vần thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ. Viết về tình mẫu tử là một đề tài quen thuộc của thi ca, nhưng một tác giả mà có đến nhiều tác phẩm viết về đề tài này như Lâm Thị Mỹ Dạ quả không nhiều. Đọng lại trong lòng người đọc khi đến với những bài thơ này là những tình cảm chân thành, quý giá mà nhân vật trữ tình đã dành cho người mẹ kính yêu của mình và cho những người con yêu dấu mình đã đứt ruột đẻ ra. Dù ở phương diện nào, là một người con hay một người mẹ, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng làm tròn bổn phận của mình, trước hết là làm tròn bổn phận của mình trong đời rồi mới đến trong thơ.
Thơ ca mang chứa những năng lượng huyền bí siêu phàm, chính vì thế, những lời thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ càng làm xúc động lòng người. Chất trữ tình đan xen với những dòng tự sự  nhẹ nhàng, thấm thía đã đưa ta trở về với những ngày ấu thơ để cảm nhận sâu sắc hơn những tình cảm yêu thương  dạt dào của mẹ. Phút giây bùi ngùi xúc động làm cho mỗi người đọc lại nhớ tới người mẹ hiền yêu dấu của mình hơn. Lòng biết ơn được gợi nhắc, những vần thơ như tấm gương cho người đọc soi mình vào dòng sông cuộc sống. Năm tháng có thể cuốn trôi đi tất cả nhưng những tình cảm cao quý, thánh thiện của con người thì không được phép quên, không thể nào quên. Đất nước mình còn nghèo, người phụ nữ dù đã được giải phóng nhưng vẫn còn nhiều cơ cực. Hãy biết cảm thông và chia sẻ trước khi chỉ biết đón nhận những tình cảm yêu thương mà người mẹ đã dành cho mình. Dòng sông không bao giờ ngừng chảy cũng như tình cảm của mẹ dành cho con là vô tận vô cùng. Hãy đừng chiêm ngưỡng từ xa mà phải biết biến nó thành hành động. Đó chính là mong muốn của Lâm Thị Mỹ Dạ trong những vần thơ viết về tình mẫu tử của mình. Những tình cảm riêng tư, thầm kín của nhà thơ đã bắt gặp được tiếng đồng vọng của đời, đã tìm thấy tiếng nói tri âm trong lòng bao thế hệ người đọc. Bởi thơ Lâm Thị Mỹ Dạ luôn hướng người đọc tìm đến những giá trị nhân văn cao đẹp trong cuộc đời. Mảng thơ viết về tình mẫu tử trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã góp phần làm cho thơ chị sâu sắc hơn, nồng nàn hơn, nữ tính hơn, phong phú hơn và in đậm cá tính của mình hơn.
                                                        
Tân Kỳ, ngày 19-2-2008

PHẠM THỊ THUÝ VINH
(nguồn: TCSH số 230 - 04- 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.