Tình đất

16:10 22/04/2013

LÊ PHƯƠNG LIÊN 

…Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                   (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

Ngày mồng 5 Tết Quý Tỵ năm nay, tôi vào Hoàng thành Thăng Long, mỗi bước chân đi mà cảm thấy run run như đứa trẻ lẫm chẫm tập bước. Đất dưới chân mình lặng lẽ lắm, rắn chắc lắm, vững như đá cứng đã dãi dầu mưa gió ngàn năm, thế mà vẫn mềm mại êm ái đón nhận bước chân đứa con trở về…

Bước qua cổng Đoan Môn, tôi nhìn sâu vào vết hào di tích. Dưới nền đất đời Nguyễn là dấu vết thềm điện đời Lê, nhìn sâu xuống nữa là những viên gạch nền điện đời Trần, sâu xuống nữa là dấu vết cột trụ cung điện thời Lý… Và sâu xuống nữa là đất nước thăm thẳm tình thâm.

Tôi đứng lặng thinh mà lắng nghe tiếng gió xuân mới mẻ đang thổi trên những cây muỗm cổ thụ ngàn tuổi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm có thật như tiếng chuông chùa ngân vọng đi vọng lại, nhưng tiếng buổi nào từ điện Diên Hồng vọng lên. Tôi nhận ra tiếng đất không phải bằng tai mà có lẽ bằng nhịp đập của trái tim mình, hơi rộn lên, hơi lạc đi một chút bất thường... Tiếng đất ấy có lẽ không đến với trí tinh khôn của kẻ vừa bước trên mặt đất vừa tính toán thời giá mà có lẽ lại chợt đến với người có tình đang xúc cảm với đất, vừa bước vừa thương…

Thường tiếng tình của đất ấy đã đến với tôi vào những buổi sáng ngày 30 Tết khi tôi về quê cha, quỳ lạy trước nơi yên nghỉ của cha mẹ, ông bà… mời mẹ mời cha, mời ông bà tổ tiên về ăn Tết. Nhìn những giọt mưa xuân lặng lẽ rơi, trong mờ mờ những làn hương bay về hư ảo, tôi lại nghe thấy tiếng đất giao tình rung động và thương mến trở về với tôi, không chỉ trên những ngón tay đang chắp lại mà có lẽ đang thấm trên cả ngũ quan vừa đang trầm xuống gần hơn với đất ẩm lại vừa đang thăng lên đón gió giao mùa.

Rồi, vào dịp Nguyên Tiêu tết Quý Tỵ này, tôi bay vào Huế.

Tôi được theo các anh chị Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế đi viếng mộ thi nhân, từ cụ Phan Bội Châu “ông già Bến Ngự” đến Tùng Thiện Vương Miên Thẩm… rồi các chí sĩ, các nhà thơ cách mạng Trần Cao Vân, Thái Phiên, Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều, Thanh Hải… Đến trước từng ngôi mộ nhìn làn khói nhang bay tôi lại lắng mình nhận ra tiếng đất, tiếng tình của đất, hình như lại cả tiếng tình của nước sông Hương nhè nhẹ vỗ về đất Cố đô, như tiếng ru của người mẹ ôm con trong lòng đất sâu thăm thẳm…

Bỗng rồi, tôi nhận ra tiếng anh chị em văn nghệ sĩ thương nhau mà nói gửi vào mây gió. Người thì cầm chén rượu rót lên tấm bia đá người bạn thơ đã đi vào cõi vĩnh hằng. Người thì nói: “Tau rửa mặt cho mi đó, đẹp trai chưa! Uống đi cho đã…” Người trên trần thế nhớ người đã khuất là vậy, tình người xứ Huế khiến tôi thấy nao nao trong lòng.

Nhưng đến đất Cố đô đâu có phải chỉ thấy những gì đã khuất, đã xưa cũ, bụi phủ, rêu phong… Tôi được ngắm nhìn bông mai mới nhất bừng nở trên cành của cây mai đã hơn trăm tuổi. Xuân là thế, xuân đến để mình bỗng thấy mình mới hẳn lên, nhỏ lại như đứa trẻ lòng chợt ấm áp khi nghe bà mẹ già làng Kim Long nói: “Tết ni thì vẫn có bánh tét, mứt gừng như rứa…”

Gừng năm nay thì vẫn cay như gừng năm ngoái, năm kia… và trăm năm trước, bởi nó vẫn mang tình của đất ấy “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Và, mứt năm nay vẫn được làm theo lối trăm năm cũ, bởi thế mà vẫn ngon, ngon như bánh chưng gói và nấu theo Lang Liêu từ nghìn năm trước… Tôi đi chầm chậm trên đất làng Kim Long xứ Huế để cúi xuống chạm đất trước cây hoa Hải Đường, những bông hoa rất đẹp đã rơi xuống đất, chạm với tình đất hoa như ửng hồng hơn hay sao đó. Tôi dừng chân lại mà muốn hỏi hoa rằng: “Hoa đến từ đâu?” Từ thời công chúa Huyền Trân vào đất này để cho hai châu Ô, Lý về với Đại Việt làm nên xứ Thuận Hóa bây giờ chăng? Cây hoa như hơi nghiêng cành lặng lẽ. Đó là một cây non mọc trên đất cũ, cây như đang muốn kể cùng ai, chuyện chưa xa, chuyện rất gần…

Bỗng nghe hoa kể chuyện mà lại nghĩ đến nghề biên tập, một nguyên tắc mà ai cũng biết là muốn thay đổi một chữ trong câu văn, câu thơ của tác giả, người biên tập cần phải trao đổi thảo luận để tác giả đồng ý mới được chữa. Đó là những câu văn mới sinh sau đẻ muộn, còn những câu cổ điển tầm cỡ như “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” thì câu chữ đã bất di bất dịch không còn ai dám động vào được nữa. Đó là văn hóa phi vật thể đã vậy, còn văn hóa vật thể những gì cha ông đã xây dựng nên từ xưa trên mảnh đất hàng trăm năm, hàng ngàn năm đâu có phải cứ tự nhiên xóa bỏ, tự nhiên thêm bớt mà chẳng cần biết đến việc hỏi ĐẤT một câu? ĐẤT nơi lưu giữ lại dấu vết của những đời người là cha ông ta là tổ tiên ta… Nếu ta nhìn sâu xuống một tấc đất ta đã chạm đến cả một thời đại đã qua… cảm giác ngày xuân nhìn sâu xuống Hoàng thành Thăng Long lại trào lên trong tôi , dù lúc này đây tôi đang ở Huế, cái cảm giác đứng trên đất vừa bước vừa thương lại lay động lòng tôi, tình đất lại dội lên day dứt trong tôi.

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.

            (Chế Lan Viên)

Vâng, thủa ấu thơ ta sống với mảnh vườn, với ngôi nhà cổ với những ngọn rau, ngọn cỏ với cây hoa cây trái... để rồi đến lúc đi xa đất quê hương đã thành tâm hồn ta thành một “cố viên tình” mãi mãi trong tim.

Ngày xuân ấy, đứng trước cây mai trăm tuổi, cây hải đường non tơ trước những ngọn cỏ mọc hoang dại nơi mảnh vườn ấy, tôi biết là mình đang ở “cố viên tình” của một người... Tôi lại cảm nhận tình đất đang dội lên trong nhịp đập của trái tim mình và để rồi lại nhận ra rõ ràng hơn không phải ai ai cũng có thể nhận ra tình đất. Người vô tình không ít mà lại rất nhiều... chính vì thế mà những việc tẩy xóa, thêm bớt xây cất bừa bãi trên đất nước mình vẫn xảy ra mà đất không được hỏi, mà nước không được hỏi... Mà không biết rằng “đêm đêm rì rầm trong tiếng đất", người xưa vẫn về hỏi lại hôm nay...

Gió theo lối gió, mây đường mây.
.........

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.

            (Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử)

Có lẽ các nhà thơ đã dự cảm giúp cho mọi người thấu hiểu cái mong manh của tình người, mong manh như số phận của cỏ cây, mong manh như số phận của một mái nhà, dù mái nhà ấy có bằng xi măng cốt thép...

Và, có lẽ làn khói nhang của văn nhân thắp hương mộ thi nhân trong ngày Nguyên Tiêu năm nay lại cảm thấu với tình đất, với tình nước, với tình trời, giao hòa với cõi vô thủy vô chung, gửi “cố viên tình” từ thời Lý Bạch, Đỗ Phủ... về trăm năm sau, nghìn năm sau...

Huế, Nguyên Tiêu Quý Tỵ, 2013
L.P.L  
(SH290/04-13)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)