PHẠM TUẤN VŨ
Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học không phải là vấn đề mới mẻ. Từ xưa, cổ nhân đã nói đến vấn đề “ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị 意在言外, 玄外之音, 甘餘之味” (ý ở ngoài lời, âm thanh ở ngoài tiếng đàn, mùi ở ngoài vị ngọt), “ngôn tận ý bất tận” 言盡意不盡 (lời cạn ý không cạn) của văn chương, nhất là thơ ca.
Ảnh: internet
Có thể người xưa chỉ điểm qua đâu đó mà chưa xây dựng thành hệ thống lí luận về tính đa nghĩa của tác phẩm văn học như ngày nay, nhưng qua nhiều hình tượng văn chương trong văn học cổ, ta thấy được điều này. Tiếng đàn của Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲 là một điển hình như vậy.
Trong Truyện Kiều, nàng Kiều họ Vương đánh đàn bốn lần, hai lần cho chàng Kim Trọng (đầu và cuối truyện), một lần cho vợ chồng Hoạn Thư và một cho “quan tổng đốc trọng thần” Hồ Tôn Hiến. Nói như nhà thơ Tế Hanh trong bài viết Bốn lần Kiều đánh đàn (Tc Văn học, 12/1965), lần thứ nhất và thứ tư “là những khúc nhạc yêu đương”, hai lần còn lại “là những khúc nhạc đau khổ”. Ở mỗi thời điểm, tiếng đàn nàng Kiều có những sắc thái, cung bậc khác nhau nhưng đều có điểm chung là xúc động lòng người, khiến mỗi người nghe không “não nùng xôn xao” thì “cũng tan nát lòng”, “khi vò chín khúc khi chau đôi mày”, ngay cả kẻ “mặt sắt” Hồ Tôn Hiến cũng phải “nhăn mày rơi châu”. Hình tượng tiếng đàn Thúy Kiều mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu một phương diện là tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm văn học nói riêng thông qua hình tượng độc đáo này.
Nguyễn Du đã rất dụng công khi xây dựng hình tượng tiếng đàn nàng Kiều, “bốn lần đều khác nhau và hay như nhau” bởi nói như Tế Hanh (tài liệu đã dẫn trên), “lấy thơ tả nhạc là một điều khó. Tả nhiều lần mà khác nhau mà hay như nhau thì khó đến đâu!” và “cái khó mà Nguyễn Du vượt qua một cách vinh quang như chúng ta đã thấy”. Có lẽ khi dành nhiều tâm huyết xây dựng hình tượng này, cụ Nguyễn cũng đã cảm nhận được vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, nhất là tác phẩm thơ ca.
Bản nhạc mà nàng Kiều đánh có tên “Bạc mệnh” (泊命), được “pho vào đàn ấy những ngày còn thơ” vì “quen mất nết đi rồi”. Đây là bản nhạc hay nhưng buồn. Cái tên của nó đã nói lên điều đó. Kim Trọng, Chung Tử Kỳ của tiếng đàn Thúy Kiều, cũng phải thốt lên khi nghe Kiều đánh lần đầu: “Rằng: ‘Hay thì thật là hay / nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào’…”. Bản đàn của Kiều là một tác phẩm âm nhạc (cung thương lầu bậc ngũ âm / nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương), hiểu rộng ra là một tác phẩm nghệ thuật. Trong cái nhìn tương qua với lĩnh vực văn chương, có thể xem bản đàn ấy như là một tác phẩm văn học xuất sắc. Vậy, những biểu hiện nào của tính đa nghĩa trong tác phẩm ngôn từ được thể hiện qua hình tượng tiếng đàn Thúy Kiều?
Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học có thể hiểu là “khả năng tác phẩm cho phép được hiểu, được cắt nghĩa và đánh giá theo những cách khác nhau trong quá trình tiếp nhận của công chúng độc giả” (Trần Thanh Bình, Bài giảng Một số vấn đề về tính đa nghĩa của tác phẩm văn học, ĐH Quy Nhơn). Dĩ nhiên, cách hiểu, cách cắt nghĩa, đánh giá ấy phải có cơ sở từ tác phẩm. Nói một cách dễ hiểu, tính đa nghĩa thể hiện ở tác phẩm có từ hai cách hiểu trở lên, tất nhiên, đó không phải là nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn mà là những ý nghĩa hàm ẩn được gợi mở từ nghĩa tường minh. Nếu xem tiếng đàn Thúy Kiều là một tác phẩm văn học thì qua những cung bậc cảm xúc, những tác động của nó đến người nghe, ta thấy được những nét cơ bản nhất về tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương.
Trước hết, dù là “cùng trong một tiếng tơ đồng” nhưng bản nhạc nàng Kiều mang trong mình nhiều nội dung khác nhau. Đó là những khúc “Hán, Sở chiến trường”, khúc “Tư Mã Phượng Cầu”, khúc “Quảng Lăng”, khúc “Chiêu Quân”. Bản đàn ấy cũng mang nhiều sắc thái không giống nhau, lúc “trong như tiếng hạc bay qua”, lúc lại “đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, lúc “khoan như gió thoảng ngoài”, lúc lại “mau sầm sập như trời đổ mưa” sau này lại “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”… Tương quan so sánh với tác phẩm văn học, ta thấy, một tác phẩm mang tính đa nghĩa phải có khả năng gợi mở nhiều nội dung, nhiều cách hiểu khác nhau, đem lại những màu sắc, hiệu ứng thẩm mỹ không giống nhau. Một tác phẩm lúc mà lúc nào cũng chỉ là “khúc Chiêu Quân”, từ đầu đến cuối chỉ “đục như tiếng suối mới sa nửa vời” thì chắc chắn sẽ rất hạn chế tính nhiều nghĩa. Như vậy, yếu tố đầu tiên và quyết định đến tính đa nghĩa của một tác phẩm chính là tự thân tác phẩm đó. Bản đàn Thúy Kiều rất tiêu biểu cho yếu tố này nếu xem nó là một thực thể nghệ thuật sống động, có sức sống nội tại của nó.
Trong những tiền đề của tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương, mơ hồ, nhòe về nghĩa là một yếu tố quan trọng. Chính sự mơ hồ này mà ranh giới của những cách hiểu bị làm mờ, nhòe đi, tạo những “khoảng trống” để người đọc đồng hành cùng tác giả trong quá trình lao động nghệ thuật xây dựng lâu đài ngôn từ bằng cách chọn cho mình những cách hiểu phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ, sở thích… Mỗi người đọc sẽ có cách hiểu riêng của mình, dĩ nhiên những cách hiểu ấy phải có cơ sở từ tác phẩm. Từ đó, ý nghĩa của tác phẩm sẽ trở nên dồi dào, bất tận. Sự mơ hồ về nghĩa là một ưu thế trong việc gợi mở, vẫy gọi nhiều cách hiểu của tác phẩm văn học mà không một loại hình nào theo kịp. Tiếng đàn Thúy Kiều khi đánh lần đầu cho chàng Kim nghe nói lên điều này. Cùng một tiếng đàn ấy thôi mà có đến bốn khúc nhạc được thể hiện với nhiều màu sắc khác nhau. Điều đặc biệt, các khúc nhạc ấy không hề tách bạch mà dường như có sự đan xen, chồng xéo lên nhau, rất khó phân biệt. Nguyễn Du dùng đến hai lần cụm “khúc đâu” đủ thấy sự mơ hồ, nhập nhằn ấy. Thậm chí, trong một khúc có tên “Chiêu Quân”, nội dung của nó cũng khó phân định rạch ròi. Nhà thơ miêu tả “nửa phần nhớ chúa, nửa phần tư gia” cũng chỉ là cách nói hết sức ước lệ mà thôi. Không dễ dàng để phân biệt trong khúc “Chiêu Quân” này đâu là “nhớ chúa”, đâu là “tư gia”. Như vậy, tính mơ hồ, nhòe về nghĩa rất quan trọng trong việc tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm. Có thể nói, tác phẩm càng nhòe, mờ về nghĩa bao nhiêu càng dễ tạo nên nhiều cách cắt nghĩa bấy nhiêu. Tất nhiên, sự mơ hồ này phải do tác giả cố tình tạo nên như là một thủ pháp nghệ thuật, chứ không phải là sự mơ hồ do rối rắm, vụng về.
Cùng với bản thân tác phẩm, người đọc là yếu tố quan trọng tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm. Lý thuyết tiếp nhận văn học ngày nay rất đề cao, thậm chí nhiều trường phái còn độc tôn vai trò của độc giả. Nếu truyền thống xem người đọc là “tri âm, tri kỷ” của tác giả, là người khám phá những gì nhà văn kí thác vào tác phẩm một cách thụ động, thì trong tiếp nhận văn học hiện đại, độc giả được xem là người đưa sáng tác của nhà văn từ phạm trù “văn bản” đến “tác phẩm”, là người quyết định đến số phận tác phẩm. Người đọc được xem là tác giả thứ hai với vai trò đồng sáng tạo, chủ động tích cựu trong việc làm giàu ý nghĩa cho tác phẩm văn chương. Mỗi độc giả tùy vào lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn…; tùy vào kinh nghiệm, năng lực, thị hiếu thẩm mỹ… sẽ tìm được cho mình những cách hiểu, cách cảm khác nhau về tác phẩm văn học, từ đó mở rộng biên độ nội dung cho tác phẩm, làm cho ý nghĩa của tác phẩm không ngừng phát sinh. Trong Truyện Kiều, cùng là một bản “Bạc mệnh” mà Kiều đánh, nhưng mỗi người nghe lại có những biểu hiện của sự tiếp nhận khác nhau. Kim Trọng thì “ngơ ngẩn sầu / khi tựa gối, khi cúi đầu / khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”. Thúc Sinh thì “giọt châu lã chã khôn cầm/ cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương”. Còn tên “quan tổng đốc trọng thần” thì “lọt tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu”. Dù rằng cùng một cảm xúc buồn nhưng phản ứng của mỗi người không giống nhau. Ở những vị địa vị, quan hệ, tâm thế khác nhau, mỗi người trong họ có những cảm nhận về tiếng đàn nàng Kiều không như nhau. Tính đa nghĩa của bản nhạc, hay suy ra là tác phẩm văn chương, có một phần rất quan trọng do người tiếp nhận quyết định. Khái quát điều này, cụ Nguyễn Du đã viết: “Cùng trong một tiếng tơ đồng/ kẻ ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Dĩ nhiêu, người tiếp nhận không phải là yếu tố duy nhất quyết định tính đa nghĩa của một tác phẩm. Nói cách khác, những ý nghĩa mà người đọc xa rời văn bản, tự ý suy diễn, áp đặt, xuyên tạc cho tác phẩm đều không được chấp nhận.
Không chỉ đối với nhiều đối tượng tiếp nhận khác nhau mà ngay cả trong một người đọc, tính đa nghĩa của tác phẩm cũng có thể phát sinh. Một độc giả lúc còn nhỏ, khi trưởng thành, khi bước vào tuổi “tri thiên mệnh”; lúc còn học tập, khi giảng dạy, nghiên cứu; lúc buồn, lúc vui, lúc khổ đau, hạnh phúc… sẽ tiếp nhận tác phẩm không giống nhau. Đây là điều dễ hiểu bởi tác phẩm có một “năng lượng nghĩa khổng lồ”, một tiềm năng ý nghĩa bất tận mà trong mỗi chặng đường của cuộc đời, mỗi hoàn cảnh sống, mỗi bước trưởng thành… người ta sẽ chiêm nghiệm, khám phá, thẩm định không giống nhau. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng tiêu biểu cho điều này. Chàng Kim là người duy nhất được nghe Kiều đánh đàn hai lần một cách tự nguyện. Bản nhạc mà Kim được thưởng thức cũng “đầm ấm”, “êm ái” nhất trong bốn lần Kiều đánh đàn. Vậy mà giữa hai lần nghe, đầu và cuối truyện, hạnh ngộ và tái ngộ, cảm nhận của chàng về ý nghĩa tiếng đàn không hoàn toàn giống nhau. Nếu đầu truyện là “Rằng: hay thì thật là hay/ nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào/ lựa chi những khúc tiêu dao/ cực lòng mình, cũng nao nao lòng người” thì cuối truyện, trong đêm hợp cẩn muộn màng, “khúc đâu đầm ấm dương hòa/ ấy là Hồ Điệp hay là Trương Sinh/ khúc đâu êm ái xuân tình/ ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên”. Rõ ràng, ý nghĩa, sắc thái cảm xúc bản đàn của Kiều trong sự tiếp nhận của Kim “xưa sao sầu thảm, này sao vui vầy”, nghĩa là có sự thay đổi rất lớn. Bởi lúc này, Kim Trọng không còn “là người ngày xưa”, Thúy Kiều cũng đã không còn là nàng Kiều của buổi ban đầu nữa. Cũng là một bản “Bạc mệnh” đó thôi, nhưng ý nghĩa của nó trong sự tiếp nhận của người nghe ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ không giống nhau. Ý nghĩa của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều tâm trạng, vốn sống, trình độ thẩm mỹ… của người đọc mà chính cụ Nguyễn đã nói: “Tẻ, vui bởi tại lòng này”.
Tất nhiên, vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm nghệ thuật ngôn từ nói riêng hết sức phức tạp. Một hình tượng bản đàn không đủ để khái quát được những khía cạnh, phương diện của nó. Tuy vậy, bằng một con mắt tinh tường, một vốn sống dày dặn và một tài năng nghệ thuật trác tuyệt, Nguyễn Du đã để lại cho hậu sinh một hình tượng nghệ thuật thành công, độc đáo và giàu giá trị. Trong những giá trị của tiếng đàn nàng Kiều, giá trị lý luận về tính đa nghĩa, có thể là nhà thơ vô tình, ở một phương diện nào đó, xứng đáng được xem là một đóng góp của thi hào Nguyễn Du đối với lý luận văn học nghệ thuật của nước ta thời trung đại.
P.T.V
(TCSH346/12-2017)
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.
INRASARATham luận tại Hội thảo “Nhà văn với sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước”, Hội Nhà văn Việt Nam, Đồng Nai, 8-1-2009.
HOÀNG NGỌC HIẾNWallace Stevens ví hành trình của những nghệ sĩ Tiên phong (hoặc Tiền vệ) của chủ nghĩa hiện đại những thập kỷ đầu thế kỷ XX như những cuộc phiêu lưu của những nhà thám hiểm núi lửa, họ đã đến núi lửa, “đã gửi về tấm bưu ảnh cuối cùng” và lúc này không có ước vọng gì hơn là trở về nhà.
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).
VIỆT HÙNGCông tác lý luận phê bình văn học nghệ thuật đang là mối quan tâm lo lắng của giới chuyên môn, cũng như của đại đa số công chúng, những người yêu văn học nghệ thuật. Tình trạng phê bình chưa theo kịp sáng tạo, chưa gây được kích thích cho sáng tạo vẫn còn là phổ biến; thậm chí nhiều khi hoặc làm nhụt ý chí của người sáng tạo, hoặc đề cao thái quá những tác phẩm nghệ thuật rất ư bình thường, gây sự hiểu nhầm cho công chúng.
HẢI TRUNGVũ Duy Thanh (1811 - 1863) quê ở xã Kim Bồng, huyện An Khánh, tỉnh Ninh Bình là bảng nhãn đỗ đầu trong khoa thi Chế khoa Bác học Hoành tài năm Tự Đức thứ tư (1851). Người đương thời thường gọi ông là Bảng Bồng, hay là Trạng Bồng.
NGUYỄN SƠNTrên tuần báo Người Hà Nội số 35, ra ngày 01-9-2001, bạn viết Lê Quý Kỳ tỏ ý khiêm nhường khi lạm bàn một vấn đề lý luận cực khó Thử bàn về cái tôi trong văn học. Anh mới chỉ "thử bàn" thôi chứ chưa bàn thật, thảo nào!... Sau khi suy đi tính lại, anh chỉnh lý tí tẹo tiêu đề bài báo thành Bàn về "cái tôi"trong văn học và thêm phần "lạc khoản": Vinh 12-2001, rồi chuyển in trên Tạp chí Văn (Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 4 (Bộ mới, tháng 3-4)-2002. Trong bài trao đổi này chúng tôi trích dẫn căn cứ theo nguyên văn bài báo đã in lần đầu (và về cơ bản không khác với khi đưa in lại).
TRƯƠNG ĐĂNG DUNGCùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
NGUYỄN NGỌC THIỆNTrong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trung xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xuôi chữ quốc ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm.
L.T.S: Trong ba ngày từ 03 đến 05 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Huế đã diễn ra hoạt động khoa học quốc tế có ý nghĩa: Hội thảo khoa học Tác phẩm của F. Jullien với độc giả Việt Nam do Đại học Huế và Đại học Chales- de-Gaulle, Lille 3 tổ chức, cùng sự phối hợp của Đại sứ quán Pháp ở Việt Nam và Agence Universitaire francophone (AUF). Hội thảo có 30 tham luận của nhiều giáo sư, học giả, nhà nghiên cứu Việt Nam, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.
NGUYÊN NGỌC1- Trong các tác phẩm của F. Jullien đã được giới thiệu ở Việt , tới nay đã được đến mười quyển, tôi chỉ dịch có một cuốn “Một bậc minh triết thì vô ý” (Un sage est sans idée). Tôi dịch cuốn này là theo gợi ý của anh Hoàng Ngọc Hiến. Khi in, cũng theo đề nghị của anh Hiến và của nhà xuất bản, cuốn sách đã được đổi tên ở ngoài bìa là “Minh triết phương Đông và triết học phương Tây”, các anh bảo như vậy “sẽ dễ bán hơn” (!).
ĐÀO HÙNGTrước khi dịch cuốn Bàn về chữ Thời (Du temps-éléments d′une philosophie du vivre), tôi đã có dịp gặp François Jullien, được nghe ông trình bày những vấn đề nghiên cứu triết học Trung Hoa của ông và trao đổi về việc ứng dụng của triết học trong công việc thực tế. Nhưng lúc bấy giờ thời gian không cho phép tìm hiểu kỹ hơn, nên có nhiều điều chưa cảm thụ được hết.
NGUYỄN VĂN DÂNTheo định nghĩa chung, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các sự việc mang tính chất xã hội. Mặc dù cội nguồn của nó phải kể từ thời Aristote của Hy Lạp, nhưng với tư cách là một ngành khoa học, thì xã hội học vẫn là một bộ môn khoa học khá mới mẻ. Ngay cả tên gọi của nó cũng phải đến năm 1836 mới được nhà triết học người Pháp Auguste Comte đặt ra.
MAI VĂN HOANƯớc lệ được xem là một đặc điểm thi pháp của văn học Trung đại. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng khá nhiều bút pháp ước lệ. Có điều nhà thơ sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn, nhàm chán. Không những thế bút pháp ước lệ của Nguyễn Du còn góp phần diễn tả một cách tinh tế, sâu sắc tâm trạng nhân vật. Điều đó thể hiện rất rõ qua cảnh Thuý Kiều đưa tiễn Thúc Sinh về tự thú với Hoạn Thư.
HÀ VĂN LƯỠNG Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.
TRẦN THANH HÀVăn học bao giờ cũng gắn bó với thời đại và con người. Đặc biệt trong tiến trình đổi mới hôm nay, xu thế hoà nhập với văn hoá phương Tây đã ảnh hưởng không nhỏ đến văn học Việt . Bởi nó đang tác động tới "ý thức chủ thể" của nhà văn.