Tiếng đàn Thúy Kiều và tính đa nghĩa của tác phẩm văn học

10:10 09/01/2018

PHẠM TUẤN VŨ

Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học không phải là vấn đề mới mẻ. Từ xưa, cổ nhân đã nói đến vấn đề “ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị 意在言外, 玄外之音, 甘餘之味” (ý ở ngoài lời, âm thanh ở ngoài tiếng đàn, mùi ở ngoài vị ngọt), “ngôn tận ý bất tận” 言盡意不盡 (lời cạn ý không cạn) của văn chương, nhất là thơ ca.

Ảnh: internet

Có thể người xưa chỉ điểm qua đâu đó mà chưa xây dựng thành hệ thống lí luận về tính đa nghĩa của tác phẩm văn học như ngày nay, nhưng qua nhiều hình tượng văn chương trong văn học cổ, ta thấy được điều này. Tiếng đàn của Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh 斷腸新聲 là một điển hình như vậy.

Trong Truyện Kiều, nàng Kiều họ Vương đánh đàn bốn lần, hai lần cho chàng Kim Trọng (đầu và cuối truyện), một lần cho vợ chồng Hoạn Thư và một cho “quan tổng đốc trọng thần” Hồ Tôn Hiến. Nói như nhà thơ Tế Hanh trong bài viết Bốn lần Kiều đánh đàn (Tc Văn học, 12/1965), lần thứ nhất và thứ tư “là những khúc nhạc yêu đương”, hai lần còn lại “là những khúc nhạc đau khổ”. Ở mỗi thời điểm, tiếng đàn nàng Kiều có những sắc thái, cung bậc khác nhau nhưng đều có điểm chung là xúc động lòng người, khiến mỗi người nghe không “não nùng xôn xao” thì “cũng tan nát lòng”, “khi vò chín khúc khi chau đôi mày”, ngay cả kẻ “mặt sắt” Hồ Tôn Hiến cũng phải “nhăn mày rơi châu”. Hình tượng tiếng đàn Thúy Kiều mang nhiều tầng ý nghĩa. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu một phương diện là tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm văn học nói riêng thông qua hình tượng độc đáo này.

Nguyễn Du đã rất dụng công khi xây dựng hình tượng tiếng đàn nàng Kiều, “bốn lần đều khác nhau và hay như nhau” bởi nói như Tế Hanh (tài liệu đã dẫn trên), “lấy thơ tả nhạc là một điều khó. Tả nhiều lần mà khác nhau mà hay như nhau thì khó đến đâu!” và “cái khó mà Nguyễn Du vượt qua một cách vinh quang như chúng ta đã thấy”. Có lẽ khi dành nhiều tâm huyết xây dựng hình tượng này, cụ Nguyễn cũng đã cảm nhận được vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật, nhất là tác phẩm thơ ca.

Bản nhạc mà nàng Kiều đánh có tên “Bạc mệnh” (泊命), được “pho vào đàn ấy những ngày còn thơ” vì “quen mất nết đi rồi”. Đây là bản nhạc hay nhưng buồn. Cái tên của nó đã nói lên điều đó. Kim Trọng, Chung Tử Kỳ của tiếng đàn Thúy Kiều, cũng phải thốt lên khi nghe Kiều đánh lần đầu: “Rằng: ‘Hay thì thật là hay / nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào’…”. Bản đàn của Kiều là một tác phẩm âm nhạc (cung thương lầu bậc ngũ âm / nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương), hiểu rộng ra là một tác phẩm nghệ thuật. Trong cái nhìn tương qua với lĩnh vực văn chương, có thể xem bản đàn ấy như là một tác phẩm văn học xuất sắc. Vậy, những biểu hiện nào của tính đa nghĩa trong tác phẩm ngôn từ được thể hiện qua hình tượng tiếng đàn Thúy Kiều?

Tính đa nghĩa của tác phẩm văn học có thể hiểu là “khả năng tác phẩm cho phép được hiểu, được cắt nghĩa và đánh giá theo những cách khác nhau trong quá trình tiếp nhận của công chúng độc giả” (Trần Thanh Bình, Bài giảng Một số vấn đề về tính đa nghĩa của tác phẩm văn học, ĐH Quy Nhơn). Dĩ nhiên, cách hiểu, cách cắt nghĩa, đánh giá ấy phải có cơ sở từ tác phẩm. Nói một cách dễ hiểu, tính đa nghĩa thể hiện ở tác phẩm có từ hai cách hiểu trở lên, tất nhiên, đó không phải là nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn mà là những ý nghĩa hàm ẩn được gợi mở từ nghĩa tường minh. Nếu xem tiếng đàn Thúy Kiều là một tác phẩm văn học thì qua những cung bậc cảm xúc, những tác động của nó đến người nghe, ta thấy được những nét cơ bản nhất về tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương.

Trước hết, dù là “cùng trong một tiếng tơ đồng” nhưng bản nhạc nàng Kiều mang trong mình nhiều nội dung khác nhau. Đó là những khúc “Hán, Sở chiến trường”, khúc “Tư Mã Phượng Cầu”, khúc “Quảng Lăng”, khúc “Chiêu Quân”. Bản đàn ấy cũng mang nhiều sắc thái không giống nhau, lúc “trong như tiếng hạc bay qua”, lúc lại “đục như tiếng suối mới sa nửa vời”, lúc “khoan như gió thoảng ngoài”, lúc lại “mau sầm sập như trời đổ mưa” sau này lại “đầm ấm dương hòa”, “êm ái xuân tình”… Tương quan so sánh với tác phẩm văn học, ta thấy, một tác phẩm mang tính đa nghĩa phải có khả năng gợi mở nhiều nội dung, nhiều cách hiểu khác nhau, đem lại những màu sắc, hiệu ứng thẩm mỹ không giống nhau. Một tác phẩm lúc mà lúc nào cũng chỉ là “khúc Chiêu Quân”, từ đầu đến cuối chỉ “đục như tiếng suối mới sa nửa vời” thì chắc chắn sẽ rất hạn chế tính nhiều nghĩa. Như vậy, yếu tố đầu tiên và quyết định đến tính đa nghĩa của một tác phẩm chính là tự thân tác phẩm đó. Bản đàn Thúy Kiều rất tiêu biểu cho yếu tố này nếu xem nó là một thực thể nghệ thuật sống động, có sức sống nội tại của nó.

Trong những tiền đề của tính đa nghĩa của tác phẩm văn chương, mơ hồ, nhòe về nghĩa là một yếu tố quan trọng. Chính sự mơ hồ này mà ranh giới của những cách hiểu bị làm mờ, nhòe đi, tạo những “khoảng trống” để người đọc đồng hành cùng tác giả trong quá trình lao động nghệ thuật xây dựng lâu đài ngôn từ bằng cách chọn cho mình những cách hiểu phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ, sở thích… Mỗi người đọc sẽ có cách hiểu riêng của mình, dĩ nhiên những cách hiểu ấy phải có cơ sở từ tác phẩm. Từ đó, ý nghĩa của tác phẩm sẽ trở nên dồi dào, bất tận. Sự mơ hồ về nghĩa là một ưu thế trong việc gợi mở, vẫy gọi nhiều cách hiểu của tác phẩm văn học mà không một loại hình nào theo kịp. Tiếng đàn Thúy Kiều khi đánh lần đầu cho chàng Kim nghe nói lên điều này. Cùng một tiếng đàn ấy thôi mà có đến bốn khúc nhạc được thể hiện với nhiều màu sắc khác nhau. Điều đặc biệt, các khúc nhạc ấy không hề tách bạch mà dường như có sự đan xen, chồng xéo lên nhau, rất khó phân biệt. Nguyễn Du dùng đến hai lần cụm “khúc đâu” đủ thấy sự mơ hồ, nhập nhằn ấy. Thậm chí, trong một khúc có tên “Chiêu Quân”, nội dung của nó cũng khó phân định rạch ròi. Nhà thơ miêu tả “nửa phần nhớ chúa, nửa phần tư gia” cũng chỉ là cách nói hết sức ước lệ mà thôi. Không dễ dàng để phân biệt trong khúc “Chiêu Quân” này đâu là “nhớ chúa”, đâu là “tư gia”. Như vậy, tính mơ hồ, nhòe về nghĩa rất quan trọng trong việc tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm. Có thể nói, tác phẩm càng nhòe, mờ về nghĩa bao nhiêu càng dễ tạo nên nhiều cách cắt nghĩa bấy nhiêu. Tất nhiên, sự mơ hồ này phải do tác giả cố tình tạo nên như là một thủ pháp nghệ thuật, chứ không phải là sự mơ hồ do rối rắm, vụng về.

Cùng với bản thân tác phẩm, người đọc là yếu tố quan trọng tạo nên tính đa nghĩa cho tác phẩm. Lý thuyết tiếp nhận văn học ngày nay rất đề cao, thậm chí nhiều trường phái còn độc tôn vai trò của độc giả. Nếu truyền thống xem người đọc là “tri âm, tri kỷ” của tác giả, là người khám phá những gì nhà văn kí thác vào tác phẩm một cách thụ động, thì trong tiếp nhận văn học hiện đại, độc giả được xem là người đưa sáng tác của nhà văn từ phạm trù “văn bản” đến “tác phẩm”, là người quyết định đến số phận tác phẩm. Người đọc được xem là tác giả thứ hai với vai trò đồng sáng tạo, chủ động tích cựu trong việc làm giàu ý nghĩa cho tác phẩm văn chương. Mỗi độc giả tùy vào lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn…; tùy vào kinh nghiệm, năng lực, thị hiếu thẩm mỹ… sẽ tìm được cho mình những cách hiểu, cách cảm khác nhau về tác phẩm văn học, từ đó mở rộng biên độ nội dung cho tác phẩm, làm cho ý nghĩa của tác phẩm không ngừng phát sinh. Trong Truyện Kiều, cùng là một bản “Bạc mệnh” mà Kiều đánh, nhưng mỗi người nghe lại có những biểu hiện của sự tiếp nhận khác nhau. Kim Trọng thì “ngơ ngẩn sầu / khi tựa gối, khi cúi đầu / khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”. Thúc Sinh thì “giọt châu lã chã khôn cầm/ cúi đầu chàng những gạt thầm giọt sương”. Còn tên “quan tổng đốc trọng thần” thì “lọt tai, Hồ cũng nhăn mày rơi châu”. Dù rằng cùng một cảm xúc buồn nhưng phản ứng của mỗi người không giống nhau. Ở những vị địa vị, quan hệ, tâm thế khác nhau, mỗi người trong họ có những cảm nhận về tiếng đàn nàng Kiều không như nhau. Tính đa nghĩa của bản nhạc, hay suy ra là tác phẩm văn chương, có một phần rất quan trọng do người tiếp nhận quyết định. Khái quát điều này, cụ Nguyễn Du đã viết: “Cùng trong một tiếng tơ đồng/ kẻ ngoài cười nụ, người trong khóc thầm”. Dĩ nhiêu, người tiếp nhận không phải là yếu tố duy nhất quyết định tính đa nghĩa của một tác phẩm. Nói cách khác, những ý nghĩa mà người đọc xa rời văn bản, tự ý suy diễn, áp đặt, xuyên tạc cho tác phẩm đều không được chấp nhận.

Không chỉ đối với nhiều đối tượng tiếp nhận khác nhau mà ngay cả trong một người đọc, tính đa nghĩa của tác phẩm cũng có thể phát sinh. Một độc giả lúc còn nhỏ, khi trưởng thành, khi bước vào tuổi “tri thiên mệnh”; lúc còn học tập, khi giảng dạy, nghiên cứu; lúc buồn, lúc vui, lúc khổ đau, hạnh phúc… sẽ tiếp nhận tác phẩm không giống nhau. Đây là điều dễ hiểu bởi tác phẩm có một “năng lượng nghĩa khổng lồ”, một tiềm năng ý nghĩa bất tận mà trong mỗi chặng đường của cuộc đời, mỗi hoàn cảnh sống, mỗi bước trưởng thành… người ta sẽ chiêm nghiệm, khám phá, thẩm định không giống nhau. Trong Truyện Kiều, Kim Trọng tiêu biểu cho điều này. Chàng Kim là người duy nhất được nghe Kiều đánh đàn hai lần một cách tự nguyện. Bản nhạc mà Kim được thưởng thức cũng “đầm ấm”, “êm ái” nhất trong bốn lần Kiều đánh đàn. Vậy mà giữa hai lần nghe, đầu và cuối truyện, hạnh ngộ và tái ngộ, cảm nhận của chàng về ý nghĩa tiếng đàn không hoàn toàn giống nhau. Nếu đầu truyện là “Rằng: hay thì thật là hay/ nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào/ lựa chi những khúc tiêu dao/ cực lòng mình, cũng nao nao lòng người” thì cuối truyện, trong đêm hợp cẩn muộn màng, “khúc đâu đầm ấm dương hòa/ ấy là Hồ Điệp hay là Trương Sinh/ khúc đâu êm ái xuân tình/ ấy hồn Thục Đế hay mình đỗ quyên”. Rõ ràng, ý nghĩa, sắc thái cảm xúc bản đàn của Kiều trong sự tiếp nhận của Kim “xưa sao sầu thảm, này sao vui vầy”, nghĩa là có sự thay đổi rất lớn. Bởi lúc này, Kim Trọng không còn “là người ngày xưa”, Thúy Kiều cũng đã không còn là nàng Kiều của buổi ban đầu nữa. Cũng là một bản “Bạc mệnh” đó thôi, nhưng ý nghĩa của nó trong sự tiếp nhận của người nghe ở hai hoàn cảnh khác nhau sẽ không giống nhau. Ý nghĩa của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều tâm trạng, vốn sống, trình độ thẩm mỹ… của người đọc mà chính cụ Nguyễn đã nói: “Tẻ, vui bởi tại lòng này”.

Tất nhiên, vấn đề tính đa nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nói chung, tác phẩm nghệ thuật ngôn từ nói riêng hết sức phức tạp. Một hình tượng bản đàn không đủ để khái quát được những khía cạnh, phương diện của nó. Tuy vậy, bằng một con mắt tinh tường, một vốn sống dày dặn và một tài năng nghệ thuật trác tuyệt, Nguyễn Du đã để lại cho hậu sinh một hình tượng nghệ thuật thành công, độc đáo và giàu giá trị. Trong những giá trị của tiếng đàn nàng Kiều, giá trị lý luận về tính đa nghĩa, có thể là nhà thơ vô tình, ở một phương diện nào đó, xứng đáng được xem là một đóng góp của thi hào Nguyễn Du đối với lý luận văn học nghệ thuật của nước ta thời trung đại.

P.T.V  
(TCSH346/12-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.