Ảnh: evan
Qua hàng loạt các tác phẩm ghi lại dấu ấn tác giả như “Nghĩa địa xóm chùa”; “Cuốn gia phả để lại”; “Trinh tiết xóm chùa”; “Thành hoàng làng xổ số”... và bây giờ là “Tiền định”, tác giả lại tiếp tục khẳng định được phong cách riêng và thành công của mình trong sự nghiệp sáng tác. Tên tác phẩm: “Tiền định”. Ngay từ đầu người đọc đã được trang bị một ngụ ý rằng trong cuộc sống, cụ thể là mỗi con người đang sống đều có một số phận riêng, có sự can thiệp, quyết định của một đấng tối cao trong thế giới vô hình mà con người chỉ cảm nhận được bằng vô thức, linh giác. Sự sắp đặt an bài ấy chính tiền định hay thiên định. Tuy nhiên đó là cảm thức ban đầu khi tiếp nhận. Đi sâu vào tác phẩm, ta sẽ đặt ra nhiều câu hỏi. Vậy thiên định “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”. Hay nhân định “nhân định thắng thiên”, “đức năng thắng số”. Hay tính cách quyết định “số phận”... Hay đó là quy luật tâm lý, phức tạp trong tâm hồn con người mà bằng ngòi bút nghệ thuật tinh tế, nhà văn đã khám phá, giải mã những tầng sâu khuất, bí ẩn trong tâm hồn để người đọc chiêm nghiệm. Đó mới thực sự là thành công của tác phẩm nghệ thuật bởi nghệ thuật đích thực là sự tìm kiếm chính con người mang ý nghĩa nhân văn. Theo lý thuyết Tảng băng trôi, ba phần nổi, bảy phần chìm thì phần nổi lên dễ nhìn thấy nhất trong tác phẩm đó là thứ ánh sáng tiền định hắt chiếu cho mỗi nhân vật, như có ý kiến nhận xét đó là định đề của tác phẩm. Quả thật, trong tác phẩm, một thế giới nhân vật phong phú, đủ mọi tầng lớp, thành phần, lứa tuổi, lớp này tiếp lớp khác nhưng mỗi người đều có một số phận khác nhau và đều bị chi phối bởi tư tưởng tiền định. Họ đều là “Con rối trong tay thượng đế” (tr 171). Cuộc sống nhiều người cứ quanh quẩn đâu đó, xa gần, tha hương rồi lại cố hương như không thể thoát khỏi định mệnh. Đó là anh chàng Hiên, anh Tức Mặc, bác Ngọc... Khi nghĩ đến dì Yểng chết yểu, hay vợ anh Hường “nhan sắc người đàn bà đi qua thế gian vừa đủ cho người ta thương tiếc đứt ruột”, thân phận dì Mười không lấy chồng “cái thiên chức Dì như trời đã định sẵn, luôn là sự an ủi, xoa dịu cho mỗi số phận những người ruột thịt”, rồi số phận em Tiếc, thân phận của cô bé bán hoa, thân phận của mình, cô Chín đã phải thốt lên: “Sao trời bắt tội những vẻ đẹp cứ phải lầm lũi cát bụi? Nếu là nghiệp chướng, là nhân quả, những cô gái kia đã làm gì kiếp trước để bị trừng phạt khốn khổ đến vậy ở kiếp này?” (296). Hình như có sự an bài trong số mệnh nên các nhân vật luôn cam chịu với hiện tại. Chỉ đến cô Chín, nhân vật chính của truyện, người đọc mới thấy có sự đấu tranh để vượt lên số phận. Nhưng rồi cuối cùng nàng vẫn trở về với chính nàng, một cõi thiền vô định của cuộc đời. Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam”, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh đã tìm hiểu về tâm lý con người Việt Nam, ông đã khẳng định từ những phẩm cách của người nông dân cho thấy: “Ở góc độ tâm linh, nông dân tin vào sự an bài, có tính cách như là định mệnh, và họ lấy ngay niềm tin tưởng thiêng liêng ấy để tự túc và phấn đấu. Câu nói chỉ ở với trời, nhờ trời, hay quan niệm trời sinh trời dưỡng là thường trực của nông dân (Sđd, 584). Nếu trong tín ngưỡng người Việt Nam các đấng tối cao ấy là Trời - Phật - Thánh - Thần, thì trong quan niệm người phương tây Đấng tối cao là Chúa trời. Khi được hỏi về niềm tin vào Đức Chúa trời, một nhà khoa học đạt giải Nobel đã trả lời: “Việc có Chúa hay không, không quan trọng. Mà điều ông cần là một niềm tin”. Người đạo Hồi lại sùng đạo Thánh Ala. Như vậy, trong lịch sử của loài người đã tin vào đấng tối cao như một niềm tin thiêng để giúp họ vượt qua thử thách khắc nghiệt của cuộc sống. Đối với người phụ nữ Việt Nam, ngoài niềm tin thuần tuý, họ còn tin tưởng vào Đức Mẫu mẹ như một thuộc tính nữ, trở về mẫu gốc của mình. Như vậy, phủ một màn tiền định lên số phận các nhân vật trong tác phẩm hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của người Việt Nam. Nhưng ánh sáng ấy chỉ quét qua trong tác phẩm, là cớ để nhà văn đi sâu vào khai thác tâm lý đầy phức tạp, nhiều vẻ, bí ẩn. Đặc biệt là người phụ nữ, thông qua nhân vật chính là cô Chín. Qua đó, người đọc thấy được ngòi bút sắc sảo, tinh tế, những khám phá mới của nhà văn Đoàn Lê.
Trong câu chuyện về cuộc đời, ngay từ bước đi đầu tiên, cô Chín đã tin vào một sức mạnh mà cô không hiểu nổi: “Khởi đầu là do sự tình cờ hay sự sắp đặt của định mệnh, đến giờ này cô cũng không thể lý giải được”. Từ việc đi thi hộ đóng vai phụ cô đã được tuyển chính thức. Bước này tiếp bước kia, từ việc học diễn viên đến đạo diễn điện ảnh rồi trở thành một hoạ sĩ... nối dài sự nghiệp như một tiền định. Nhưng xây được niềm tin thiêng liêng trong sâu thẳm ấy không dễ gì ai cũng có được. Hơn nữa, cô Chín còn linh cảm được những điều xảy ra đối với bản thân, đối với người thân. Phải là người có trữ lượng sống dồi dào, mạnh mẽ, nhạy cảm, tinh tế, như dòng điện cảm ứng nhiều chiều mới có được. Và cô Chín là một người như thế. Trong tình yêu với anh nhà báo, người đàn ông đã theo đuổi cô mấy chục năm, mỗi lá thư anh viết dòng cuối vẫn là: “Người chưa bao giờ được là chồng em”. Nhưng tại sao anh yêu thương, giúp đỡ cô, hai người cùng có hoàn cảnh đặc biệt: cô ly hôn chồng, một mình nuôi con. Còn anh, vợ đã chết trong một trận ném bom của giặc. Mà trong mấy chục năm cứ dãi dằng. Có lẽ tại số phận. Lúc tưởng rằng hai người không thể vượt qua được sự cám dỗ của thể xác, sự khát khao tột đỉnh của hạnh phúc thì lại là lúc cô rơi vào khoảnh khắc chập chờn quá khứ và hiện tại. Bóng của vô thức lại ám ảnh. Đôi mắt người vợ anh trên tấm ảnh thờ như vụt hiện khống chế làm cô co rúm người lại trong nhà nghỉ Viôlet. Cô tự hỏi do người đàn bà ấy ngăn cách hay người đàn ông luôn hiện về trong giấc mơ của cô. “Người ấy như một người tình bí mật, không gì trọn vẹn, mãnh liệt hơn nhân gian”. Hay nốt ruồi ở gò vệ nữ đã đóng dấu số mệnh. Hay tỳ vết của cuộc hôn nhân ám ảnh tình dục như cực hình đã đánh thức làm cô hoảng sợ. Có lẽ vượt lên tất cả là lòng trắc ẩn, vị tha. Mặc dù cô vẫn thấy người ta đốt nhưng hình nhân thế mạng cho người chết để có bầu có bạn. Nhưng hình ảnh ấy chợt hiện làm cô thấy mình như có lỗi. Trong tác phẩm, cô Chín kết hôn ở tuổi mười bảy. Hai mốt tuổi ly hôn, một mình nuôi hai con. Sau đấy cô yêu Hoà nhưng Hoà hèn nhát không dám bảo vệ giọt máu của mình đến nỗi cô suýt mất cả tính mạng trong ca phá thai khủng khiếp. Lúc cô khốn khổ thì hắn lại vui vẻ với các cô gái trẻ. Sau đó là anh, người đàn ông định mệnh đã ra đi trong một tai nạn khi mọi chuyện tưởng như mới bắt đầu. Người phụ nữ cả đời chưa bao giờ được hưởng hạnh phúc trọn vẹn. Đó là số mệnh của người phụ nữ tài hoa chăng. Nhưng nhiều lúc người phụ nữ ấy lại ân hận bởi sự nông nổi của tuổi trẻ. Tuổi trẻ: “Không có một mẩu vũ khí để tự vệ, chỉ biết đem thân xác trả giá cho sự dại dột... Làm gì có biển chỉ dẫn cho những nơi đặt cạm bẫy cho cô bé mười bảy cơ chứ” (61). Sự nông nổi của tuổi trẻ người ta dễ mắc phải. Song một cô bé mười lăm, mười bảy dám tự mình quyết định mọi việc thì đâu phải chỉ là tội lỗi của tuổi trẻ. Cô bé ấy tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, đầy bản lĩnh. Tính cách đã một phần quyết định số phận cô bé. Mặc dù sống trong một gia đình gia giáo, ông bố Chi Lan cực kỳ nghiêm khắc đã quyết liệt ngăn cản cô theo nghề diễn viên: “Mày có giỏi giẫm lên xác bố mà đi”. Vậy mà cô bé mười lăm tuổi vẫn liều lĩnh một thân một mình lên thành phố theo đuổi sự nghiệp. Cuộc hôn nhân của nàng cũng vậy. Cô bé mười bảy tuổi cưới chui, giấu gia đình. Vì lý do rất thường tình. Cô không tha thứ cho người chồng chỉ với lý do một lần cô bắt gặp anh ta sàm sỡ với cô người yêu cũ. Nàng đưa đơn đến bốn lần. Nàng tức giận phá tan cái gia đình nhỏ bé của mình. Không thương tiếc, sau hơn bốn năm chung sống với hai đứa con và năm ấy nàng mới hai mốt tuổi. Nàng chủ động cắt đứt tình cảm với Hoà vì lòng tự trọng. Người phụ nữ khác có thể tha thứ. Nhưng nàng không. Chấp nhận nuôi con một mình trước đầy rẫy áp lực công việc, áp lực kinh tế, áp lực tâm lý. Trong người nàng lúc nào cũng dắt con dao nhọn để nếu khổ quá nàng sẽ tự sát. Song trong nhật ký, nàng lại khắc ghi như một quyết tâm thư: “Nhất định không gục ngã, không chịu thua cuộc đời một cách nhục nhã” (108). Từ trong cay đắng nàng vụt dậy thay đổi cuộc đời bằng việc đi thi đạo diễn điện ảnh, một nghề không dễ gì. Kể cả việc trở thành hoạ sĩ cũng vậy. Tất cả cuộc đời nàng qua từng giai đoạn như một thước phim quay chậm, tất cả diễn ra tưởng như định mệnh: “Sao trời bắt tội những vẻ đẹp cứ phải lầm cát bụi” (296). Nhưng có lúc nàng lại khẳng định: “Tính ương bướng khắc nghiệt đã gây bao sóng gió cho cuộc đời nàng”. Cho dù là số mệnh, là tiền định, là do chính mình quyết định cuộc đời mình, nhưng sau những gì đã trải trên hành trình cuộc đời mấy chục năm ròng, nhân vật tôi vẫn không hiểu hết chính con người mình, thế giới quanh mình: “Cái tôi ơi! Ngươi thật tình bí ẩn, cả khi phơi bày giữa chợ nhân gian... Người ta có linh hồn hay không? Thế giới con người thật bí mật”. Càng đi sâu vào tác phẩm ta càng khám phá được thế giới tâm hồn của người phụ nữ thật phong phú, thật tinh tế, đa chiều. Tâm hồn ấy phải được soi sáng trên nhiều bình diện. Đặc biệt, nhà văn đã vượt qua thế giới hữu hình, thâm nhập vào thế giới vô hình, thấy được vẻ đẹp tiềm ẩn của con người trong thế giới vô hình. Nhân vật trải qua không biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm gắn liền với lịch sử dân tộc, với các thời đại, cơ chế... Một cuộc đời đầy truân chuyên, sóng gió song người phụ nữ ấy đã vượt lên để sống. Sống một cuộc sống có ý nghĩa, đích thực. Đó là mẫu người phụ nữ tri thức từ những năm năm, sáu mươi của thế kỷ trước. Sự vượt lên ấy chính là sức mạnh vào một niềm tin thiêng liêng. Niềm tin ấy dẫn dụ con người tin tưởng vào chính mình, tin tưởng vào con tim, khối óc, tin tưởng vào sức mạnh tinh thần to lớn, tiềm tàng mà nhiều khi chỉ thấy đó là tiếng nói của vô thức. Sức mạnh ấy như những đại hành tinh quanh họ mà họ chỉ là tiểu hành tinh quá nhỏ bé. Có lẽ đây chính là điều mà nhà văn Đoàn Lê muốn gửi thông điệp cho chúng ta trong tác phẩm này. Theo quan điểm cái mới không phải là sự phá bỏ truyền thống. Truyền thống là nền tảng để cho ta đổi mới. Qua bút pháp, phong cách của tác giả ta thấy chưa có nhiều đổi mới song với tác phẩm này, ta thấy có một sự khám phá mới, soi thấy những điều bí ẩn trong tâm hồn con người, đắp đổi thêm sự phong phú, giàu có, cao đẹp trong tâm hồn người phụ nữ, đem đến một nhận thức mới của tiếng nói nghệ thuật. Đó là nghệ thuật chân chính mà nhà bác học Albert Einstein đã khẳng định: “Cái đẹp đẽ nhất mà ta có thể trải nghiệm được là cái bí ẩn. Đó là cảm thức nền tảng trong cái nôi của nghệ thuật và khoa học chân chính”. Hà Nội, tháng 01/2010 T.M.H (254/04-10) |
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Chưa có ai thống kê và so sánh, nhưng hẳn là trong công cuộc kháng chiến giữ nước của dân tộc ta, không có đề tài nào được sách báo nói đến nhiều như cuộc chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh.
YẾN THANH
Có nhiều thứ
Không thể chùi được bằng nước mắt
Như ánh sáng kia trên bầu trời hoàng hôn và bình minh của biển
Như sự nín lặng bất lực của cát.
Như bàn tay bên cạnh một bàn tay
(Bạch Diệp)
VĂN TOÀN - TUẤN VŨ
Trong cuộc đời đầy sôi nổi của mình, nhất là những tháng năm làm quan, Giá Viên Phạm Phú Thứ từng đến nhiều địa phương trong nước và nhiều nước trên thế giới.
LÊ THỊ HƯỜNG
Nói một cách kinh điển, ở tiểu thuyết, cái kết được xem là “sức mạnh của cú đấm nghệ thuật”(D. Furmanov).
PHONG LÊ
Quang Dũng1 - Dũng mà rất hiền, rất lành; tôi muốn dùng đến cả chữ lành để nói về ông mới thật sự đủ nghĩa và thỏa lòng.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Dám ngoái đầu nhìn lại” - Tập Phê bình văn học của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Hội Nhà văn, 2021)
NGÔ THỜI ĐÔN
Trước tác của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm (1819-1870) lâu nay mới được dịch thuật, giới thiệu ít nhiều ở phần thơ.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Nhân đọc tập thơ “Hóa vàng đi Tường” của Phạm Nguyên Tường, Nxb. Thuận Hóa, 2021)
HỒ THẾ HÀ
Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) là một tác giả/ hiện tượng văn chương, báo chí và văn hóa ở Việt Nam đầy ấn tượng của thời hiện đại, nhưng trước tiên, ông được biết đến với tư cách một nhà thơ từ thuở Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam (1942).
TÔN THẤT DUNG
Nghe tin nhà văn, nhà thơ Trần Hữu Lục qua đời, không hiểu sao trong tâm tưởng tôi dường như có ai đọc những câu ca từ trong bài Có một dòng sông đã qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn!
LÊ THỊ ĐỨC HẠNH
Mộng Sơn là một trong số hiếm hoi những nhà văn nữ xuất hiện từ trước Cách mạng tháng Tám, sau này vẫn tiếp tục bền bỉ đóng góp cho nền văn học mới bằng những tác phẩm vừa phải, khiêm tốn, biểu lộ một tình cảm chân thành, một tấm lòng nhân ái.
NGUYỄN THANH TRUYỀN
Ấn tượng của tôi về Nguyên Hào bắt đầu từ một đêm thơ gần 20 năm trước. Lần đầu tiên đọc thơ trước đám đông, dáng vẻ vừa bối rối vừa tự tin, anh diễn giải và đọc bài “Rượu thuốc”: “Ngâm ly rượu trong/ Thành ly rượu đục/ Đắng tan vào lòng/ Ngọt trong lời chúc”.
PHẠM XUÂN DŨNG
(Đọc tập sách “Bên sông Ô Lâu” của tác giả Phi Tân, Nxb. Lao Động, 2021)
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyên Du là sinh viên khóa 5 (1981 - 1985) khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Huế (nay là Đại học Khoa học).
PHONG LÊ
Thanh Tịnh (12/12/1911 - 17/7/1988), trước hết là một nhà Thơ mới, tác giả tập thơ Hận chiến trường (1936) với hai bài Mòn mỏi và Tơ trời với tơ lòng được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam cùng với lời bình.
LÊ HỒ QUANG
Dưới “áp lực” của tiêu đề, khi đọc Thỏa thuận, gần như ngay lập tức, trong óc tôi nảy sinh hàng loạt câu hỏi: Thỏa thuận nói về cái gì?
VÕ QUÊ
Từ trước đến nay chúng tôi chỉ được đọc và trân quý thơ văn của nhà thơ Lê Quốc Hán qua những bài viết đăng trên các tạp chí, trên mạng thông tin, báo điện tử mà chưa được trực tiếp cầm trên tay một cuốn sách nào của ông.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020)