CHÂU THU HÀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.
Ảnh: internet
Sự sáng tạo của các văn nghệ sĩ, nhà báo đã xây dựng nên hình tượng đẹp về Người, đó chính là biểu tượng của ý chí, của niềm tin, của tình thương bao la. Không chỉ văn nghệ sĩ trong nước mà còn nhiều nghệ sĩ quốc tế đã có những tác phẩm xuất sắc ngợi ca Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người là “hiện thân của một nền văn hóa tương lai”.
Thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị (khóa XI), Quy chế số 05-QC/BTGTW ngày 1/10/2013 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Công văn số 6204-CV/ BTGTW ngày 5/5/2014 của Ban Tuyên giáo Trung ương, Kế hoạch số 56-KH/BTGTU về hướng dẫn xét chọn, khen thưởng các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” giai đoạn 2011 - 2015 (đợt 2), nhằm thiết thực chào mừng kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Người.
Thừa Thiên Huế tự hào là nơi ghi dấu chân của Người trong 10 năm thời niên thiếu, cũng từ đó, tính cách Huế, văn hóa Huế đã thấm đẫm trong tâm hồn Bác, trở thành một nhân tố quan trọng trong việc hình thành lòng yêu nước của Người sau này.
Chính vì vậy, ngay khi Cuộc vận động sáng tác, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí viết về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trên địa bàn tỉnh, đã có hàng trăm tác phẩm dự thi với nhiều đề tài phong phú và đa dạng. Các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí đã tập trung phản ánh làm rõ hơn tư tưởng, đạo đức của Bác, góp phần khẳng định nội dung, ý nghĩa sâu sắc của Cuộc vận động. Nhiều tác phẩm đã chú ý khai thác, biểu dương người tốt, việc tốt, góp phần tích cực nâng cao đạo đức cách mạng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Qua 3 năm triển khai thực hiện (2011 - 2014), nhận thức về mục đích, ý nghĩa của giới văn nghệ sĩ và những người làm báo trong tỉnh được nâng lên, đã có nhiều tác phẩm tốt, chất lượng cao. Mỗi năm, Liên hiệp các Hội VHNT, Hội Nhà báo tỉnh nhận được rất nhiều tác phẩm của các hội viên, văn nghệ sĩ, nhà báo trong tỉnh gửi về.
Ban Thường vụ Liên hiệp các Hội VHNT tỉnh đã phát động hội viên hưởng ứng tham gia bằng nhiều hình thức như tổ chức các trại sáng tác, đi thực tế, triển lãm, hội thảo chuyên đề… Quá trình tham gia xét giải, đã có 32 tác phẩm được giới thiệu và Liên hiệp các Hội VHNT đã tuyển chọn được 14 tác phẩm, công trình có chất lượng gửi xét thưởng ở cấp tỉnh gồm: 4 tác phẩm âm nhạc, 1 mỹ thuật, 4 tác phẩm văn học, 3 tác phẩm ảnh, 1 tác phẩm sân khấu, 1 tác phẩm văn nghệ dân gian, và 1 cá nhân có thành tích xuất sắc.
Hội Nhà báo tỉnh đã tích cực chỉ đạo các chi hội trực thuộc hưởng ứng, tham gia sáng tác, quảng bá và tiến hành tuyển chọn 14 tác phẩm báo chí xuất sắc. Trong 3 năm qua, đã có trên 2000 tin, bài, mẩu chuyện, hồi ký, ghi chép… được đăng tải ở các cơ quan báo chí trên địa bàn tỉnh.
Hàng năm, Hội Nhà báo tỉnh đã tổ chức nhiều đợt đi thực tế, mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn cho hội viên theo chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; trích 20% kinh phí từ nguồn hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao của Nhà nước để đầu tư trực tiếp cho những tác phẩm báo chí có nhiều sáng tạo mang lại cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc cho người đọc, người xem.
Qua các tác phẩm dự xét thưởng, có thể thấy, sự lao động, sáng tạo được các văn nghệ sĩ, nhà báo tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng, thể hiện tâm huyết, trách nhiệm của đội ngũ để tạo nên những tác phẩm có giá trị, góp phần cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tích cực học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, giới thiệu và phát hiện những nhân tố tích cực, đem lại lợi ích cho xã hội và sự phát triển của quê hương, đất nước, lay động lòng người một cách chân thực. Bằng tấm lòng thành kính của mình đối với Bác kính yêu, các hội viên đã tìm tòi, đổi mới tư duy sáng tác, khắc họa sâu đậm hình tượng Bác Hồ trong mỗi tác phẩm của mình.
Để xây dựng những tác phẩm VHNT, báo chí thể hiện hình tượng Bác Hồ có chiều sâu tư tưởng và giá trị nghệ thuật cao, đòi hỏi có sự tìm tòi, sáng tạo, cách tiếp cận vấn đề mới của mỗi tác giả. Với những thành công ban đầu, các hội viên thông qua tác phẩm của mình, tuyên truyền giáo dục nhân dân học tập và làm theo tấm gương của Bác, đóng góp sức lực, trí tuệ vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước
Bên cạnh những nỗ lực và kết quả đã đạt được, việc khen thưởng chỉ mới dừng lại ở hội viên các hội chuyên ngành, những người làm báo chuyên nghiệp, chưa mở rộng đến được đội ngũ cộng tác viên và cán bộ nhân dân có tham gia sáng tạo tác phẩm VHNT, báo chí. Hoạt động sáng tác, quảng bá nói chung và các tác phẩm chất lượng cao nói riêng cần được đẩy mạnh tuyên truyền rộng rãi hơn, không chỉ dừng lại ở dịp trao giải thưởng.
Ban Sơ khảo cấp tỉnh xét thưởng các tác phẩm văn học - nghệ thuật, báo chí về chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đã tuyển chọn được 2 tác phẩm đạt giải A, 3 tác phẩm đạt giải B, 6 tác phẩm đạt giải C và 8 tác phẩm đạt giải khuyến khích trên các lĩnh vực văn học nghệ thuật và báo chí. Có 4 tập thể và 2 cá nhân được khen thưởng về những thành tích nổi bật trong hoạt động sáng tác, quảng bá đợt này. Tỉnh đã chọn 5 tác phẩm báo chí xuất sắc gửi về Hội Nhà báo Việt Nam, 5 tác phẩm văn học nghệ thuật xuất sắc gửi về Ủy ban Toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam để dự xét thưởng nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Với lòng kính yêu, sự biết ơn vô hạn đối với Bác, các văn nghệ sĩ, đội ngũ báo chí và nhân dân Thừa Thiên Huế trong thời gian tới sẽ tiếp tục có nhiều tác phẩm giá trị. Đó sẽ là các tác phẩm đạt chất lượng cao về nội dung và nghệ thuật, sâu sát thực tiễn; góp phần tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tư tưởng, đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong cán bộ, đảng viên và nhân dân Thừa Thiên Huế, quảng bá hình ảnh quê hương, đất nước, con người xứ Huế.
C.T.H
(SH315/05-15)
ĐẶNG TIẾN
Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
NGUYỄN HIỆP
Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?
LƯƠNG THÌN
Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.
VƯƠNG TRỌNG
Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).
NHỤY NGUYÊN
Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.
LÊ THỊ BÍCH HỒNG
Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).
THÁI KIM LAN
Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
HOÀI NAM
Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.
ĐỖ LAI THÚY
Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.
TRẦN NHUẬN MINH
Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).
YẾN THANH
“vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
ngọn lửa phù du mách bảo
vui buồn tương hợp cùng đau”
(Hồ Thế Hà)
Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.
NGÔ THẢO
Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.
Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).
NGÔ ĐÌNH HẢI
Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.
NGÔ MINH
Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.
DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN
Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.
NGUYỄN HIỆP
Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.
Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.