Thư viết từ khám tử hình - Phan Đăng Lưu với mặt trận dân chủ ở Huế (1936 – 1939)

09:23 20/08/2008
LTS: Phan Đăng Lưu là một nhà cách mạng tiền bối, tiêu biểu của Đảng từng hoạt động ở Huế và có ảnh hưởng lớn đến trí thức văn nghệ sĩ yêu nước thời bấy giờ. Chính nhà thơ Tố Hữu cũng đã thổ lộ điều đó trong bài thơ Quê me (Anh Lưu anh Diểu dạy con đi).Nhân 100 năm ngày sinh Phan Đăng Lưu (5.5.1902 – 5.5.2002), Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tư liệu về đồng chí, đặc biệt là bức Thư viết từ khám tử hình – bức thư mang đặc trưng "đa nghĩa" của một tác phẩm văn học nên nó đã vượt qua được sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù.

THƯ VIẾT TỪ KHÁM TỬ HÌNH

Con yêu quý (*)
Chắc là qua báo đăng, con đã biết tin cha bị kết án tử hình trong các điều mà cha bị buộc tội có những điều sau đây:
1. Theo lời khai của người nào đó tên là T trước khi chết, thì cha đã tham gia cùng anh ta trong một cuộc hội nghị bí mật ngày 19/11/1940, từ đó phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước. Thế nhưng chính ngày đó (ngày 19/11) cha còn ở Hà Nội và chỉ về tới Sài Gòn sau ngày 22/12. Con thử nghĩ xem cha có cái thuật phân thân như một Phakia (1) hay phép biến hoá vô cùng như một vị đại thánh trong huyền thoại không?
2. Dường như cha đã thảo một lời kêu gọi gửi quân đội cách mạng. Thật ra, đó chỉ là một mảnh giấy trên đó có 4 - 5 dòng tiếp theo bản ghi chép của cha về Tân tứ quân của Đảng cộng sản Trung Quốc (Ôi dịch tức là phản!) (2).
Đó là hai tội, là điều đã mang lại cho cha án tử hình.
Nhưng con yêu quý con đừng buồn, con cố gắng lau khô nước mắt của mẹ con, hãy an ủi mọi người trong gia đình, nhất thiết đừng có chạy chọt, điều đó chỉ uổng công vô ích thôi.
Trong lúc chờ quyết định cuối cùng từ Pháp sang, cha hiện đang bị nhốt tại khám lớn Sài Gòn, phòng số 13. Chế độ dành cho cha và các bạn tù có thể nói là không chê trách được, nếu như không khí ở đây không ngột ngạt, vì phòng giam đúng là một cái lò, trong đó mọi người bị rang lên thật sự. Chỉ sợ cha và các bạn không thể sống lay lắt cho đến ngày hành hình.
Dẫu sao, cha cùng bình tâm nhận số phận đã dành cho mình và kiên gan chịu đựng.
Một lần nữa, con hãy tự an ủi và làm khuây lòng tất cả những người mà cha thương mến. Con trả lời cho cha càng sớm càng tốt.
PHAN ĐĂNG LƯU
--------------------------------------------
(*) Thư này được gởi đi từ Bưu điện Sài Gòn, đóng dấu 22 giờ ngày 2/5/1941, đến Bưu điện Hà Tĩnh 11h30 ngày 5/5/1941. Nguyên văn bằng chữ Pháp, viết bằng bút chì.
(1) Phakia, gốc từ chữ Arập, tên gọi những thầy tu khổ hạnh ở Ân Độ.
(2) Đây nguyên là thành ngữ La tinh được Phan Đăng Lưu viết bằng chữ La tinh trong thư "O tranuttore traditore" nghĩa là "Ôi dịch tức là phản", có ý ám chỉ người dịch bản ghi của cha về Tân tứ quân ra chữ Pháp đã dịch sai, gây nên sự hiểu lệch đi của người Pháp nghiên cứu hồ sơ của anh. Thành ngữ này đã mang tính quốc tế phổ biến.


PHAN ĐĂNG LƯU VỚI MẶT TRẬN DÂN CHỦ Ở HUẾ
(1936 – 1939)

NGÔ KHA

Đồng chí Phan Đăng Lưu, người con xứ Nghệ, người chiến sĩ cộng sản kiên cường sống mãi trong niềm kính trọng, biết ơn của nhân dân Huế về sự đóng góp to lớn của đồng chí trong phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế (1936 – 1939) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những năm giữa thâp kỷ 20 của thế kỷ 20, từ làng Tràng Thành tỉnh Nghệ An, Phan Đăng Lưu đã vào học trung học tại Huế. Năm 1928, anh lại vào Huế để tham gia chuẩn bị Đại hội Đảng Tân Việt và tham gia biên tập "Quan Hải tùng thư", soạn những cuốn sách tuyên truyền tư tưởng tiến bộ để giáo dục đảng viên và quần chúng. Ở Huế, Phan Đăng Lưu có điều kiện hòa mình vào công nhân, thanh niên, trí thức và nhiều tầng lớp lao động, tổ chức đấu tranh trong phong trào yêu nước – dân chủ. Tại Đại hội Đảng Tân Việt tháng 7.1928 họp tại Huế, đồng chí được bầu vào Thường vụ Tổng bộ Tân Việt, phụ trách tuyên huấn.
Cuối năm 1928, đồng chí Phan Đăng Lưu được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) tìm gặp Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, nhưng bị mất liên lạc, đồng chí trở về nước. Sau đó đồng chí lại trở sang Trung Quốc một lần nữa, nhưng đồng chí đã bị địch vây bắt trên đường đi tại Hải Phòng và đưa về giam nhà tù Vinh. Năm 1930, Phan Đăng Lưu bị đày lên nhà lao Buôn Mê Thuột. Tại đây, đồng chí đã gặp lại các đảng viên cộng sản ở Huế. Đồng chí Bùi San kể lại: "Mấy năm sống cạnh anh Lưu ở Buôn Mê Thuột, anh mang số tù 1438, đã để lại trong tôi một ấn tượng sâu sắc. Một mặt, anh bền bỉ đấu tranh chống kẻ thù, mặt khác anh luôn luôn quan tâm đến đời sống tinh thần cũng như vật chất của anh em đồng chí. Anh thường xuyên giúp anh em nâng cao trình độ chính trị, giữ vững tinh thần đấu tranh cách mạng và chí khí chiến đấu..."
Đầu năm 1936, Phan Đăng Lưu được ra tù do phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta và trào lưu tiến bộ lúc bấy giờ. Đồng chí được trở về Huế – trở về với phong trào đấu tranh của một thành phố mà đồng chí từng gắn bó, thân thuộc. Anh lại hăng hái cùng các đồng chí Nguyễn Chí Diểu, Lê Duẩn, Bùi San lao vào cuộc chiến đấu mới.
Do bối cảnh lịch sử thuận lợi, Đảng ta đã tổ chức Mặt trận Dân chủ Đông Dương, nhằm đoàn kết mọi lực lượng dân chủ và tiến bộ dưới khẩu hiệu hòa bình, tự do dân chủ, cơm áo. Đảng chủ trương kết hợp những hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp để xây dựng tổ chức Đảng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân.
Cuộc vận động Đông Dương Đại hội được tổ chức rộng khắp nhiều nơi trong nước, trong đó cuộc vận động ở Huế và các tỉnh miền Trung rất rầm rộ, sôi nổi. Đồng chí Phan Đăng Lưu được giao phụ trách đấu tranh hợp pháp tại thành phố Huế. Đồng chí là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của cuộc vận động Đông Dương Đại hội tại Huế và các tỉnh chung quanh. Sau thời gian vận động, Đại hội đại biểu nhân dân được tổ chức tại Huế – trung tâm chế độ cai trị thực dân phong kiến. Nhân dân thành phố Huế và các huyện tỉnh Thừa Thiên sôi sục kéo đến mít tinh tỏ sự ủng hộ tuyệt đối và đưa nguyện vọng của mình lên Đông Dương đại hội. Đồng chí Phan Đăng Lưu tham gia chủ tịch đoàn Đại hội. Việc tổ chức được Đông Dương đại hội ở Trung Kỳ là một thắng lợi lớn. Nhân dân khâm phục, tin tưởng các đồng chí Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu và các chiến sĩ cộng sản lãnh đạo cuộc họp đó.
Phát huy thắng lợi, các cuộc bãi công của thợ in, thợ may, công nhân nhà máy điện Huế, xưởng vôi Long Thọ và các cuộc đấu tranh của nông dân các huyện Phú Vang, Hương Trà, Hương Thủy, Phong Điền... chống sưu thuế.
Đồng chí Phan Đăng Lưu đã góp phần quan trọng lãnh đạo nhân dân Thừa Thiên Huế đón và đưa dân nguyện cho Gô Đa, phái viên Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương cuối tháng 2.1937. Trong hai ngày Gô Đa ở lại Huế, nhiều cuộc "đón tiếp" với nhiều bản "dân nguyện" được các tầng lớp nhân dân vượt qua sự kìm kẹp chặt chẽ của mật thám, của các loại lính tới tấp đưa đến Gô Đa. Gô Đa đã phải nhận những bản yêu sách đòi cải cách dân chủ ở Đông Dương. Ngày 27.2.1937, một số đoàn đại biểu, trong đó có đoàn do đồng chí Phan Đăng Lưu dẫn đầu đến gặp Gô Đa đưa một bản yêu sách, một bản dân nguyện với lời lẽ kiên quyết, đanh thép.. Phan Đăng Lưu là một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ yếu cuộc biểu dương lực lượng quần chúng đòi cải cách dân chủ, đòi cải thiện đời sống dứoi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Những ngày hoạt động ở Huế, đồng chí Phan Đăng Lưu đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên huấn của Đảng. Đồng chí trực tiếp chỉ đạo các tờ báo Nhành Lúa, Sông Hương, cộng tác với "Quan Hải tùng thư", xuất bản những loại sách phổ thông nhằm giáo dục lòng yêu nước thanh niên trí thức Huế, viết bài cho báo "Hồn trẻ", "Tin tức".
Xứ ủy phân công đồng chí Phan Đăng Lưu tổ chức đại hội báo chí Trung Kỳ tại Huế để tập hợp những người viết báo tiến bộ, hướng các báo vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc. Đại hội báo chí đã họp tại Huế, có đại biểu trong Nam, ngoài Bắc và đại biểu công nhân, nông dân, trí thức, học sinh Thừa Thiên Huế đến dự.
Năm 1938, báo Dân – cơ quan những người cấp tiến xứ Trung Kỳ ra đời do Phan Đăng Lưu phụ trách. Báo "Dân" đã thể hiện tập trung nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, được nhân dân Huế và Trung Kỳ hoan nghênh. Số đầu báo "Dân" đã đăng những bài thơ đầu tay của đồng chí Tố Hữu va nhà thơ nhớ mãi những lời dặn dò chí tình của đồng chí Phan Đăng Lưu: "... Hãy ở gần với đời sống, với quần chúng lao động.., lấy ngôn ngữ quần chúng, phải viết dễ đọc, dễ hiểu và đừng dài quá...". Sau này trong bài thơ "Quê mẹ", Tố Hữu đã ghi nhớ công lao của Phan Đăng Lưu:
"Con lớn lên con tìm cách mạng
Anh Lưu, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt khi con chửa biết gì"
Đồng chí Phan Đăng Lưu đã cùng Nguyễn Chí Diểu và nhiều đảng viên khác đi sát các địa phương, tuyên truyền vận động thắng lợi việc bầu những người của Mặt trận Dân chủ vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, góp phần chỉ đạo đấu tranh chống lại dự án tăng thuế thành công.
Cuối năm 1939, Phan Đăng Lưu rời Huế vào hoạt động ở Nam Bộ và hy sinh anh dũng đầu năm 1941.
Đồng chí Phan Đăng Lưu đã tham gia tích cực, sắc bén trong chỉ đạo phong trào Mặt trận Dân chủ ở Huế và Trung Kỳ. "Đó là một thời kỳ vận động quần chúng sôi nổi chưa từng thấy dưới thời Pháp thống trị, chuẩn bị điều kiện để đưa quần chúng vào những trận chiến đấu quyết liệt mới trong thời kỳ 1940-1945 (Lê Duẩn – Dưới lá cờ vẻ vang)...
Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế ghi nhận vai trò của đồng chí Phan Đăng Lưu lãnh đạo phong trào cách mạng ở Huế. Con đường có hiệu sách Thuận Hoá – cơ quan Xứ uỷ ở trung tâm thành phố được mang tên đường Phan Đăng Lưu, ngôi trường phổ thông trung học trên đường Huế – Thuận An, nhìn qua bên kia sông Phổ Lợi là ngôi nhà Bác Hồ ở Dương Nỗ, được mang tên Trường Phổ thông trung học Phan Đăng Lưu. Trong công tác giáo dục, phát huy truyền thống những chiến sĩ cộng sản kiên cường, Phan Đăng Lưu người con xứ Nghệ cũng như là một người con xứ Huế, một tấm gương cộng sản, niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Huế.
N.K
(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HÀTạp chí sáu tỉnh Bắc miền Trung vẫn duy trì đều đặn hàng năm gặp gỡ giao lưu để cùng tìm cách nâng cao chất lượng tờ tạp chí văn học của địa phương mình. Năm nay, năm 2003 Tạp chí Nhật Lệ đến phiên đăng cai cuộc họp mặt. Khách mời năm nay, ngoài các cơ quan trong tỉnh Quảng Bình, còn có đại biểu của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, của tạp chí Diễn đàn, cơ quan ngôn luận của Hội về dự.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Nhà thơ Thu Bồn có nhiều duyên nợ với Huế, với Sông Hương. 20 năm trước, trong dịp TCSH ra đời, anh có mặt ở Huế và viết bài thơ “Tạm biệt” - một trong ít ỏi những bài thơ hay nhất về Huế, 20 năm sau, cũng vào dịp TCSH kỷ niệm tròn 20 tuổi thì anh lại ra đi, ra đi trong lời vĩnh biệt!Thương tiếc nhà thơ tài hoa Thu Bồn, Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một vài kỷ niệm vaì tình cảm của bạn bè, đồng nghiệp dành cho anh.                                                                TCSH

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNVề chính trị, ông được chữ nhất: Đại biểu quốc hội trẻ nhất (22 tuổi, khóa I năm 1946); Tổng thư ký Hội Nhà văn lâu nhất (1958 – 1989).Về văn nghệ, ông được chữ đa: đa tài, sáng tác nhiều lĩnh vực, và để lại dấu ấn: thơ (Người chiến sĩ, Tia nắng, Sóng reo), văn (Vỡ bờ), kịch (Con nai đen, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc), nhạc (Diệt phát xít, Người Hà Nội), tiểu luận (Mấy vấn đề văn học, Công việc của người viết tiểu thuyết).

  • ...Có 2 từ người Việt Nam hay dùng cho những người làm thuê các công việc cho người khác là: "Lê dương" và "Pắc chung hy". Chả biết từ bao giờ, bạn bè gọi tôi là "Kha lê dương" bên cạnh các biệt hiệu khác như "Kha điên", "Kha voi", "Kha xe bò miên". Là gì thì cũng vẫn là Kha. Thiếu em ư? Đúng ra là tôi không thể sống thiếu tình yêu như một câu thơ tôi đã viết: "Điều khốn nạn là không thể nào khác được - không thể không tình yêu, không tin ở con người"...

  • ... Với giới văn nghệ sĩ thừa Thiên Huế, nhà văn Nguyễn Đình Thi là người anh lớn, rất thân thiết và gần gũi qua nhiều năm tháng. Anh là tấm gương sáng trên nhiều lĩnh vực sáng tác, quản lý, hoạt động phong trào... Đã có nhiều tác động tích cực, ảnh hưởng tốt đẹp cho một số cây bút ở Thừa Thiên Huế; đồng thời đã để lại nhiều kỷ niệm đẹp trong đời sống văn học Thừa Thiên Huế.Sự ra đi của nhà văn Nguyễn Đình Thi là một tổn thất lớn đối với nền văn học nghệ thuật nước nhà, để lại cho chúng ta niềm tiếc thương vô hạn.... Sự nghiệp sáng tạo văn học nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Đình Thi vẫn sống mãi với chúng ta!                                 (Trích điếu văn của nhà thơ Võ Quê)

  • ĐÀO DUY HIỆPGiáo sư, nhà giáo ưu tú Đỗ Đức Hiểu đã không còn nữa.Đã vĩnh biệt chúng ta một nhà sư phạm hiền từ, một nhà khoa học khiêm tốn và có nhiều phát hiện, một con người đầy lòng nhân ái, tin yêu cuộc sống và suốt đời đã sống vì cái đẹp của văn chương, nghệ thuật. Mười bảy giờ bốn mươi nhăm phút ngày 27 tháng 2 năm 2003 đã là thời khắc đó – cái thời khắc đã chia cách hai thế giới từ nay âm dương cách trở giữa giáo sư Đỗ Đức Hiểu với chúng ta. Ông đã để lại sau mình một cuộc đời dài nhiều ý nghĩa.

  • NGUYỄN HOÀNGTrong cuộc đời 83 năm của mình, bác sĩ Nguyễn Khắc Viện (BS.NKV) không chỉ một lần tình nguyện đem cuộc đời mình làm... vật thí nghiệm để có được một kết luận khoa học. Lần đầu, nửa thế kỷ trước, tại Pháp, sau 7 lần lên bàn mổ, cắt mất hẳn lá phổi trái, 1/3 lá phổi bên phải và 8 xương sườn (do bị lao mà thời đó chưa có thuốc chữa đặc hiệu), thấy rõ y học phương Tây không cứu được mình, BS. NKV đã vận dụng phương pháp Yoga của Ấn Độ và khí công của Trung Quốc trên cơ sở phân tích sinh lý, tâm lý và giải phẫu cơ thể con người, tự cứu sống mình, hình thành nên phương pháp “dưỡng sinh Nguyễn Khắc Viện” ngày nay.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNVào dịp Tết Bính Thìn, Tết dân tộc cổ truyền đầu tiên sau giải phóng, Viện Đại học Huế nhận được một bưu thiếp chúc Tết đặc biệt của vị Thủ tướng kính mến thời đó - Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Nhà trường đã cho viết to bức thư của Thủ tướng viết sau cánh thiếp lên một tấm bảng lớn, trân trọng đặt tại Hội trường của Viện Đại học Huế.

  • TÔ NHUẬN VỸTôi có một cái va ly nhỏ dùng để đựng những vật kỷ niệm, những thư từ, những bức ảnh quý nhất của mình. Trong số kỷ vật quý giá đó, có bức thư của anh Tố Hữu gửi tôi và anh Hoàng Phủ Ngọc Tường, tháng 3/1987, kèm theo là bài thơ Nhớ về anh được đánh máy trên giấy Pơ luya vàng nhạt, kiểu chữ ở một cái máy nào đó mà  mới nhìn biết ngay là từ một cái máy chẳng lấy gì làm tốt, để "Kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh mồng 7 tháng 4 của đồng chí Lê Duẩn”.

  • LÊ MỸ Ý ghi                (Trích)Khi tôi đến, hai ông đang ngồi chiếu rượu trong căn hộ chung cư sáu tầng cao ngất ngưởng. Căn phòng như được ghép bằng sách. Trên tường, ảnh Văn Cao đang nâng ly và bức sơn dầu "Tuổi Đá Buồn" Bửu Chỉ vẽ Trịnh Công Sơn dựa vào cây đàn ghita ngóng nhìn vô định. Ngẫu nhiên tôi trở thành người hầu rượu, nói đế cho cuộc đối thoại ngẫu nhiên của hai ông...

  • MAI VĂN HOANThầy giáo dạy văn                                      Tặng Mai Văn HoanHộ tập thể nằm trên gác xépCăn phòng thanh đạm, có gì đâu!Một chồng sách cũ, dăm chai nướcMột chiếc bàn con, một bếp dầu...

  • THANH THẢOThái Ngọc San khác với một số người bạn Huế mà tôi chơi: anh ít nói, ít nói đến lặng thinh, ít nói nhiều khi đến sốt cả ruột. Nhưng nhiều lúc, vui anh vui em, rượu vào lời ra, San cũng nói hăng ra phết. Những lúc ấy, cứ nghĩ như anh nói để giải toả, nói bù cho những lúc im lặng.

  • PHAN HỮU DẬTLTS: GS.TS Phan Hữu Dật là người làng Thanh Lương, xã Hương Xuân, huyện Hương Trà, TT Huế, hiện nghỉ hưu tại Hà Nội. Giáo sư từng là Trưởng ban phụ trách Đại học Văn khoa Sài Gòn (1976), Hiệu trưởng Đại học Tổng hợp Hà Nội (1985-1988). Bài viết dưới đây do Giáo sư đọc trong Lễ kỷ niệm 90 năm ngày sinh của nhà thơ Vĩnh Mai (1918-2008), như một sự tri ân đối với người mà Giáo sư xem như là người thầy, người thủ trưởng, người đồng chí... với những tư liệu mới mẻ và góc nhìn thấu đáo. Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài viết này cùng bạn đọc.

  • NGÔ MINHTác phẩm văn học nghệ thuật là sáng tạo của mỗi tác giả hội viên; đồng thời là thước đo hiệu quả hoạt động của Hội trong một nhiệm kỳ. Nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của Hội đều hướng về hội viên, hướng về việc làm sao để có những tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng ngày càng cao. Nếu không thì sinh ra Hội để làm gì?

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOVà tôi đã rời xa Huế vào những ngày mà chính tôi cũng không muốn một chút nào. Có lẽ, không ai trách được sự sắp xếp và an bài của cuộc sống. Dù rằng Huế đối với tôi là ân nghĩa, là những kỷ niệm khó phai thì rồi cũng phải tự tạ từ. Trong sâu thẳm đáy lòng, khi nhìn những đêm trăng phả xuống thành phố tôi đang sống, tôi lại quay lòng nhớ Huế, dẫu một chút thôi, hơi thở của tôi đã không được đắp bồi bởi Huế.

  • VÕ MẠNH LẬPTôi đọc một bài. Không! Chỉ là một đoạn nhưng vừa đủ ngẫm - mà thú vị. Đó là cô gái với cái tên quen mà lạ. Cô ta phân bày quê chôn nhau cắt rốn xa xa ngoài tê tề. Cha mẹ cô đèo bòng vô ở tại một thị xã miền Trung. Sau cùng cô lại ở Huế học hành, lớn lên, đôi lúc bạn bè xa đến cứ ngỡ cô là Huế ròng.

  • L.T.S: Nhà thơ, nhà báo Thái Ngọc San sinh năm 1947 tại Lệ Thuỷ, Quảng Bình nguyên Thư kí Toà soạn Tạp chí Sông Hương, chuyển công tác qua phụ trách văn phòng liên lạc báo Thanh Niên tại T.T. Huế đã từ trần vào lúc 0giờ 45 phút ngày 25.7.2005 sau một tai nạn giao thông oan nghiệt.Thương tiếc anh, Sông Hương mở thêm trang để bạn bè, đồng nghiệp cùng chia sẻ và thắp nén tâm hươngKhi chúng tôi được tin buồn về anh San thì số báo tháng 8 đã in xong; Tình thế “chữa cháy” này không sao tránh khỏi những bất cập, mong các tác giả cùng quý bạn đọc lượng thứ.

  • L.T.S: Đại hội VHNT Thừa Thiên Huế lần thứ X sẽ được tổ chức vào cuối tháng 8 năm nay. Để đại hội có tiếng nói dân chủ rộng rãi, TCSH xin “dành đất” cho các anh chị hội viên, các bạn đọc quan tâm tham gia ý kiến trao đổi về nghề nghiệp, về hoạt động của Hội, về tổ chức hội v.v...Ngoài các ý kiến đã đăng tải trên số này, chúng tôi sẽ tiếp tục in thêm các ý kiến khác trong số tới

  • ĐÔNG HÀTôi không sinh ra ở Huế, nhưng với tuổi đời chưa quá ba mươi mà đã hơn hai mươi năm sống ở đất Kinh thành, đó cũng một sự gắn bó không thành tên.

  • THU NGUYỆT                (Trích tham luận tại Đại hội VII  Hội Nhà văn Việt Nam)