Thư gửi tổng thống Mỹ Richard M. Nixon - Những dòng chữ cuối cùng của chủ tịch Hồ Chí Minh

09:52 19/05/2009
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

Bức thư của Hồ Chủ tịch gửi cho tổng thống Mỹ đề ngày 25 tháng 8 năm 1969 - tám ngày trước khi Người vĩnh biệt non sông đất nước ta(1). Ai cũng hiểu rằng bức thư được viết lúc sức khoẻ của Người rất yếu(2). Vì vậy, lựa chọn vấn đề nào để giải quyết không phải là điều dễ dàng. Đó rõ ràng phải là vấn đề quan trọng và cấp bách nhất. Có thể nói tới sự dẫn dắt từ vô thức - một điều rất khó tranh cãi - đối với người sắp lìa bỏ cõi trần. Trong những giờ phút sau cùng, nhận thức và tâm linh thường tạo ra những phán quyết xuất thần mà cả nội hàm lẫn ngoại hàm của ngôn từ, đều có không ít những điều để lại sự trăn trở lâu dài.

Phần mở đầu, Hồ Chủ tịch đã lên án cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ: "vô cùng công phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và đất nước chúng tôi..." Tuy nhiên, với một tấm lòng nhân văn đáng khâm phục, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nói rõ rằng Người "rất xúc động thấy ngày càng có nhiều thanh niên Mỹ chết vô ích ở Việt Nam..." Một cách nhìn đầy đủ từ cả hai phía là quan điểm không dễ có được trong hoàn cảnh đầy đau thương của dân tộc. Nó không chỉ là việc bỏ lùi lại phía sau toàn bộ sự thiển cận, mà còn là cách Hồ Chí Minh mở đường cho phần lương tri có thể của người đứng đầu nhà nước Mỹ. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh biết rõ Nixon là người có thể hiểu đúng nhất thế cùng đường của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. Vấn đề còn lại là làm cho ông ta nhận thấy ngay từ sự bi thảm của thất bại, niềm thông cảm của người chiến thắng đối với kẻ ngược lại là con đường ngắn nhất để tìm được một giải pháp đúng, cho dù chẳng ai hoàn toàn hài lòng với giải pháp đó.

Phần thứ hai của bức thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định quyết tâm "chiến đấu đến cùng, không sợ hy sinh gian khổ..." của toàn thể dân tộc Việt Nam; nhưng Người cũng diễn đạt rất rõ rằng Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn đủ tỉnh táo cũng như sự hiểu biết cần thiết để đưa ra "cơ sở hợp tình hợp lý" trong việc giải quyết "vấn đề Việt Nam". Điểm độc đáo phi thường của bức thư là chủ tịch Hồ Chí Minh đã cố tình lặp đi lặp lại đến ba lần cụm từ "vấn đề Việt Nam". Một cuộc chiến tranh đã kéo dài 15 năm được rút gọn bằng hai từ thật giản dị. Hồ Chủ tịch đã chỉ ra cho tổng thống Mỹ thấy chân lý đang hiện rõ ở nơi mà ông ta cố tình không nhìn thấy. Sự ngoan cố của nhà cầm quyền Mỹ; sự không hiểu hết tư tưởng Hồ Chí Minh của rất nhiều người - đó là một phần của nguyên nhân giải thích vì sao phải đến bốn năm sau khi Người qua đời, Hiệp định Paris mới được ký kết (!)

Nói như thế để thấy rằng sự tinh tế của tư duy, sự mẫn tiệp của trí tuệ, sự nhạy cảm của một thiên tài và tầm nhìn xa sâu sắc của một lãnh tụ vĩ đại có ý nghĩa như thế nào đối với việc có thể thay đổi số phận một dân tộc.  

 Phần cuối của bức thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc đòi hỏi tổng thống Mỹ phải "rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam", coi đó là phương án duy nhất đúng đắn của "lòng mong muốn hành động cho một nền hoà bình công bằng" của tổng thống Mỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng Người nhìn thấy:
"Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự".

Trong bức thư, câu trên được viết thành một dòng riêng. Cần lưu ý rằng đây là lần đầu tiên Hồ Chủ tịch chính thức dùng từ "trong danh dự" để mở lối thoát cho siêu cường lớn nhất thế giới có thể cứu vãn được phần nào sự xói mòn nghiêm trọng uy tín của họ trên trường quốc tế. Đó là cách làm tỉnh táo từ truyền thống rộng lượng của dân tộc Việt Nam kết hợp với sự uyển chuyển đầy linh hoạt nguyên tắc đối ngoại của Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hiểu rất rõ con đường để nhân dân ta đi tới đích thắng lợi vẫn còn dài. Vì vậy, ở câu kết của bức thư, Người viết "Với thiện chí của phía ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam." Chỉ với số lượng rất ít từ ngữ, người đọc có thể hình dung thật đầy đủ rất nhiều những khó khăn sẽ đến từ bản chất ngoan cố của chính quyền Mỹ.

Gần một phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh viết những dòng chữ cuối cùng của cuộc đời. Ngắn gọn và sâu sắc, giản dị nhưng đầy sức nặng không chỉ là văn phong mà còn là sự kết tinh nhuần nhuyễn giữa một tri thức uyên bác và sự linh cảm diệu kỳ. Tất cả những gì Hồ Chí Minh đã "thấy" trước khi Người mất đều đã xảy ra, thậm chí chính xác đến từng chi tiết.

 Làm sao Hồ Chí Minh có thể gần như chắc chắn rằng R. Nixon sẽ phải là người quyết định ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam? Trong rất nhiều công việc bộn bề của một chủ tịch nước; trong giây phút cận kề giữa sự sống và cái chết, tại sao Người lại coi việc viết thư cho tổng thống Mỹ là điều quan trọng nhất? Có mối quan hệ nào giữa lời mở đầu của Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 - 9 - 1945; khai sinh một Nhà nước với sự kiện này không? Hơn nữa, đó là bức thư được viết vào "một ngày đầu thu, nghe chân ngựa về..." rất gần?.

Tôi viết những dòng này khi cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Iraq đang diễn ra vô cùng quyết liệt (05-4-2003). Có rất nhiều sự khác nhau giữa hai cuộc chiến tranh Iraq bây giờ và Việt Nam trước kia; nhưng khác biệt lớn nhất, theo tôi nghĩ đó là Hồ Chí Minh.

Những ngẫm suy về Chủ tịch Hồ Chí Minh là những điều, như tôi đã nói đầu bài viết này, chỉ có thể đúng phần nào khi ta bắt đầu từ một trái tim. Luận giải xung quanh một nhân vật hay một sự kiện phi thường, lỗi lạc - tri thức chỉ đủ để mô tả, hay nhiều lắm, nhìn thấy vừa đúng(!) tầm vóc con người của nhân vật đó. Sự vĩ đại của nhân cách, sự nghiệp; con người và tư tưởng của Hồ Chí Minh là một trong số ít những điều mà dân tộc Việt, loài người - sẽ hiểu được sau rất, rất nhiều năm nữa.           

Nhân loại đang nói bằng nhiều cách về một thế giới mà sự hợp tác, phát triển hình như ngày càng rực rỡ những ánh hào quang của không ít pháo hoa? Tuy nhiên, đôi khi loài người cũng phải ngồi lại để nghĩ rằng, chừng nào mà chủ nghĩa đế quốc còn tồn tại; chừng nào mà những tham vọng quyền lực, những đe doạ của chủ nghĩa dân tộc quá khích, sự khủng bố còn tiếp tục; thì chừng đó, hình ảnh bất tử của Chủ tịch Hồ Chí Minh - đỉnh cao của tất cả những gì tinh hoa nhất của dân tộc Việt, dòng máu Việt, sẽ mãi vẫn là tấm gương sáng ngời của trí tuệ và lòng kiêu hãnh tuyệt vời; về tinh thần dũng cảm, quyết tâm hy sinh cho nền độc lập, tự do của TỔ QUỐC mình.

Huế, 05 tháng 4 năm 2003.
T.V.H
(171/05-03)

-----------------------------
(1)Những trích dẫn trong bài này là ở trang 488 - 489 của tập 12, Hồ Chí Minh toàn tập. NXB Chính trị Quốc gia; H. 1996.
(2) Tất nhiên không loại trừ khả năng bức thư này được viết sớm hơn.
(3) Những chỗ nhấn mạnh hoặc in nghiêng trong bài này là của tác giả.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ THÀNH SƠN   

    Thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta một cảm giác mất thăng bằng, một thế đứng chông chênh nguy hiểm, như thể khi bước vào thế giới thơ của Vũ Lập Nhật là chúng ta đang bước vào một thế giới khác, một thế giới song song không biên giới; ở đó, trật tự, định luật vạn vật hấp dẫn, sự sáng suốt của lý tính như bị thách thức.

  • THÚY HẰNG  

    Xoài xanh ở xứ sương mù” là tập tản văn dày 340 trang do nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cuối năm 2018. 

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH 

    Chân trời là giới hạn của tầm mắt, dẫn đến ảo tượng về sự giao nối giữa trời và đất. Do vậy, chân trời vừa hữu hạn, vừa vô hạn.

  • ĐÔNG HÀ  

    Tôi yêu thơ Nguyễn Trọng Tạo từ những năm còn là sinh viên. Tuổi trẻ nhiều háo hức, về tình yêu, về non xanh và tơ nõn. Nhưng khi bắt gặp những câu thơ chảy ngược trong tập Đồng dao cho người lớn, tôi lại choáng váng. 

  • NGÔ MINH

    Có một ngày nhạt miệng, thèm đi. Đi mãi mới hay phố cũng thiếu người. Có một ngày nằm dài nghe hát. Rồi ngủ quên trong nỗi buồn nhớ mông lung.

  • NGỌC THẢO NGUYÊN

    Buổi sinh hoạt được đặt tên là Tọa đàm bàn tròn về thơ. Đây là buổi sinh hoạt mang tính chất thử nghiệm của Phân hội văn học (lại một cách nói rào đón nữa chăng?)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Duy nhất chỉ thơ mới đứng cùng bình diện với triết học và suy tư triết học
                                        Heidegger
    Con người, sống trên đời, như một thi sĩ
                                        Heidegger

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Trong thơ tình, tình yêu là kẻ chiến thắng sau cùng. Chứ không phải lý trí, đạo đức, chính trị hay lịch sử. Bao giờ và ở đâu cũng thế.
    Chỉ còn anh và em
    Cùng tình yêu ở lại

  • PHAN ĐÌNH DŨNG   

    Từ hai cuốn sách: Những người thân trong gia đình của Bác Hồ, Bác Hồ gặp chị và anh ruột; soi vào những bài thơ của Bác, chúng ta có dịp nghiền ngẫm thêm về những tình cảm riêng/chung của Người.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA

    Thảo Am Thi Tập của Nguyễn Khoa Vy không chỉ có giá trị về mặt nội dung mà còn có giá trị về mặt nghệ thuật.

  • LÊ KIM PHƯỢNG

    Với thi sĩ Cao Quảng Văn, thơ là cảm xúc thăng hoa tuyệt đỉnh và nếu văn chương có đích, thì thơ là tuyệt đích của tâm hồn. Ở chốn đó, sáng tạo ra đời. Vì vậy, thưởng thức thơ không thể không bằng cảm xúc từ trái tim của người đọc: “Thơ là tiếng nói từ trái tim đập vào trái tim”.

  • LTS: Nhà thơ Ngô Minh, sinh ngày 10 tháng 9 năm 1949; Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, cộng tác viên thân thiết của Sông Hương. Sau cơn tai biến nặng từ trưa 26 tháng 11 năm 2018, nhà thơ đã từ trần tại nhà riêng vào lúc 23 giờ 12 phút ngày 3 tháng 12 năm 2018. Nhà thơ được an táng tại Khu nghĩa trang phường Hương Long, thành phố Huế (sau lưng chùa Thiên Mụ).
    Sông Hương thành kính chia buồn cùng gia quyến và bạn đọc, xin đăng bài viết dưới đây của nhà thơ Đông Hà, như là nén nhang tưởng nhớ, vĩnh biệt một người thơ…

                Ban Biên tập

  • HỒ THẾ HÀ

    Hoàng Diệp là thơ nổi tiếng với thi tập Xác thu (Nxb. Nam Kỳ, Hà Nội, 1937) trước khi trở thành nhà phê bình, nghiên cứu văn học.

  • PHAN VĂN NAM    

    Sau các tập thơ Cùng đi qua mùa hạ (Nxb. Văn nghệ, 2005), Phía bên kia cây cầu (Nxb. Phụ nữ, 2007) và Ngày linh hương nở sáng (Nxb. Hội Nhà văn, 2011) được trao nhiều giải thưởng văn chương uy tín, tác giả Đinh Thị Như Thúy tiếp tục ra mắt tập thơ mới Trong những lời yêu thương (Nxb. Hội Nhà văn, 12/2017).

  • VĂN THÀNH LÊ    

    1.
    Có thể nói Trần Đăng Khoa là trường hợp lạ của văn đàn Việt. Giữa thời đại cả nước lo ra đồng chạy ăn và ra trận đánh giặc, cuối những năm 1960 đầu những năm 1970, cậu bé Khoa cùng những cô bé/cậu bé 9 - 10 tuổi khác như Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng Quý, Trần Hồng Kiên… “đã đi lạc” vào thơ.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ    

    Nhiều người đến dự buổi giới thiệu Tự truyện “Mạ Tui” do Tạp chí Sông Hương và Trung tâm Văn hóa Phật giáo Liễu Quán phối hợp tổ chức không biết Nguyễn Viết An Hòa (NVAH) là ai, nhưng khi Ban Tổ chức cho hay đó là bút danh trên Facebook (Fb) của thầy giáo Nguyễn Viết Kế, thì đều vui vẻ thốt lên: “À…”.

  • ĐỖ LAI THÚY

    Lý thuyết hệ hình là một hệ pháp nghiên cứu sự phát triển. Văn học Việt Nam, do những đặc điểm riêng thuộc của mình, không phát triển nối tiếp như ở các nước phương Tây, mà gối tiếp như những làn sóng, con trước chưa tan thì con sau đã tới, hay đúng hơn vừa là nối tiếp vừa là gối tiếp.

  • SƠN CA 

    Mất mát, tận cùng của mất mát. Cô đơn, tận cùng của cô đơn. Thực tại “vặn xoắn con người đến mức cảm giác không còn hình hài”.