Minh họa DUY NINH
Một trong những yếu tố để hến tồn tại đến bây giờ chính là triết lý sống thanh cao của nó. Thanh cao đến độ khi há miệng là lúc lìa trần gian, cũng là thời khắc hến hiến dâng thân xác cho con người. Trong dân gian có câu “há miệng mắc quai” hay câu “lời nói đoại máu”, hay ”uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” và trong kinh Phật có câu “Tịnh khẩu chơn ngôn”, trong ba nghiệp đeo đẳng theo con người là: ý nghiệp, thân nghiệp và khẩu nghiệp. Tôi tin rằng ai cũng hiểu vì sao lời nói lại quan trọng như thế. Vì điều đó biểu hiện nhân cách con người. Vậy có thể xem hến như một vị thiền sư, suốt đời thinh lặng cho đến khi lìa trần. Với hạnh “tịnh khẩu” của hến, con người phải xem hến là bậc thầy để noi theo. Và nhà thơ Trần Hạ Tháp đã cảm nhận: Nước vẫn chảy bao lần qua đó Hến ngậm bùn sống đáy lòng sông Loài há miệng chỉ khi còn là vỏ... Với thực vật thì có hoa Sen sinh trưởng từ bùn, và Sen đã trở thành biểu tượng trong đạo Phật thể hiện sự giác ngộ, vô nhiễm. Với động vật thì ngoài những loài khác còn có hến. Hến ở Huế sống một đời cam chịu dưới tận lớp bùn ở đáy sông và tự thanh lọc mình trên dòng Hương thơ mộng. Để rồi khi được thoát ra lớp vỏ đó là lúc trở về với cái không nghiệt ngả, hay trở về cuộc hóa thân vĩ đại của tạo hóa. Không biết chính xác vào khoảng thời gian nào, những người dân trên vùng đất Thần kinh đã đồng hành cùng hến và biến hến thành một món ẩm thực tuyệt vời có một không hai. Và trong cuộc đồng hành đó, con người xứ Thần kinh đã đặt tên cho một dải đất trên sông là Cồn Hến. Theo các nhà dịch lý thì Cồn Hến là Tả Thanh Long trong hệ thống kinh thành Huế. Trong dịch lý, Thanh Long nằm phía trái, tượng trưng cho văn, nữ tính. Ngoài hình dáng địa lý tự nhiên của Cồn Hến có thể ví như bộ phận kín đáo nhất của người con gái, thì những loài cây trên dải đất thanh tao này cũng mang dáng vẻ của người thiếu phụ, mà đặc biệt vào lúc mùa bắp trổ hoa và những bãi bờ lau sậy trắng cả màu chiều hoang hoải. Trong cảm nghiệm sâu xa, tôi như cảm nhận được tính âm trong mỗi con hến, về cả hình dạng, màu sắc, vị giác và cả thuộc tính mát lạnh do ở dưới lớp bùn tận đáy sông. Rồi trong vở tuồng “Nghêu Sò Ốc Hến” thì nhân vật Thị Hến là phái nữ, phải chăng điều đó đã được cảm nghiệm trong tâm thức của dân gian người Việt. Trong các lễ rước, thì đối tượng được rước luôn được quý trọng và tôn vinh. Như lễ rước thánh mẫu, đám rước nàng dâu, rước trạng về làng,… thì hến cũng được người dân xứ Huế làm lễ rước hến rất long trọng vào ngày 24 tháng sáu âm lịch hàng năm. Trên những chiếc thuyền treo cờ xí, kết hoa và đèn lọng rực rỡ cùng với chiêng trống,…rồi những âm thanh bi hùng vang lên giữa một vùng sông nước. Điều đó chứng tỏ hến đã đi vào đời sống của người dân xứ sở Thần kinh. Không dừng lại trong phạm vi thành phố bé nhỏ này, hến góp phần vào sự sáng tạo của dân gian để tạo ra một đặc sản độc đáo: Cơm Hến. Vì sao Hến lại được đặt song hành cùng cơm, trong khi cơm là lương thực chính của người dân có nền văn hóa định canh, định cư và cơm còn được xem như là hạt châu được tạo ra bởi công sức lao động của người nông dân. Phải chăng có điều gì thật siêu hình đã được gắn kết như một định mệnh? Đúng là trời đất không quên công lao người dân làm nghề hến, để đến bây giờ trong kỷ nguyên văn minh truyền thông của thế kỷ XXI, hến đã lan truyền khắp năm châu cùng với nền văn minh lúa nước qua món: Cơm Hến. Và mỗi vị khách khi đang thưởng thức cái hương vị thanh tao kia, phải toát cả mồ hôi, chảy nước mắt, điếc lỗ tai và hít hà như trẻ nhỏ,… như những người dân làm nghề hến phải thức dậy từ sáng sớm, dầm mình dưới nước và ánh mặt trời, để có được sản phẩm hến phục vụ cho các nhà hàng, các gánh cơm hến,… phải qua biết bao công đoạn như một tổ chức lao động dây chuyền được hình thành trong tự nhiên. Ôi, một triết lý tuyệt vời. Người thưởng thức cũng toát mồ hôi như người lao động, tất cả đều hạnh phúc trong biết bao vị giác cuộc đời. Đắng, cay, chua, chát, mặn, ngọt, béo, nồng, nóng, lạnh,… và cái tâm lành của con người gửi vào món Cơm Hến cùng với mưa nắng ở đất Thần kinh. Đó là sản phẩm của thiên nhiên và con người xứ Huế trao tặng cho tất cả mọi người. Cũng như loài hoa Sen, Hến sinh sống trong lớp bùn sâu và đã cho con người một hạt ngọc non đầy tính nhân văn; đó chính là sự thanh cao. Có khi nào đang thưởng thức tô cơm hến xứ Huế, bất chợt bạn nghe tiếng vọng rì rào của dòng Hương, như lời thì thầm của người con gái đang nói lời yêu thương. Hay bạn đang húp tô nước hến nóng giữa ngày đông, bạn sẽ cảm nhận được sự ấm áp tự đáy dòng sông Hương, một con sông luôn trở mình trước bao dông tố cuộc đời. Đã bao lần tự hỏi vì sao cơm hến lại hấp dẫn như vậy? Một buổi sáng trong lành, khi đang thưởng thức tô nước hến thanh tao tôi chợt phát hiện một mùi hương kỳ lạ lẩn quất trong vô vàn hương vị kỳ diệu, đó chính là hương nồng pha lẩn chút mùi tanh thật nhẹ của thảo mộc của loài Thạch Xương Bồ. Một ngày mùa thu, lang thang trên hòn đảo xanh trước nhà, tôi đã cảm nhận được đời sống chân chất của người dân Cồn Hến. Các con đường đất nho nhỏ quanh co trên mảnh đất này như các mạch máu trên một cơ thể. Sinh hoạt của người dân ở đây thầm lặng, trong không khí yên tĩnh đến lạ thường. Thỉnh thoảng tiếng chuông nhà thờ Tân Thủy lại rung vang như muốn nhắn nhủ với mọi người về sự tồn tại của thượng đế, rồi vào những thời khắc tranh sáng tranh tối tiếng chuông từ chùa Pháp Hải và Niệm Phật đường Hương Lưu lại ngân vọng như để xua tan sự u tối trong mỗi con người. Có thể tiếng chuông ngân vọng mỗi ngày đã tác động đến loài hến ở xứ Cồn mà tạo nên vóc dáng thanh tao và hương vị ngọt bùi. Hầu như người dân ở đây sống bằng nghề làm hến, nghề sông nước, nghề may mũ, chằm nón một thời chưa xa,… một số gia đình mở hàng quán bán các đặc sản xứ cồn như: cơm hến, chè bắp, ốc xào,… Để vào được xứ sở thần tiên này, ngoài chiếc cầu sắt nhỏ độc đạo nối Vỹ Dạ với Cồn Hến còn có một bến đò Cồn đã tồn tại từ rất xưa ở ngã ba Nguyễn Bỉnh Khiêm và Chi Lăng để đưa khách qua lại từ bờ Bắc sang Cồn Hến. Đã quá lâu rồi, tôi mới được thấy hình ảnh vài ba o trong dáng đi nhịp nhàng trên đôi quang gánh, một đầu là thùng nước hến đặt trên bếp than hồng, đầu kia là các thực phẩm và dụng cụ để bày biện nên lễ hội của rau cỏ cùng bản hòa âm của gia vị cuộc sống: ớt, nước ruốc sống, bánh tráng nướng, muối rang, đậu phụng phi dầu, mè rang, tóp mỡ, vị tinh, dầu phụng phi hành... Mọi thứ được bày biện ngăn nắp như cuộc chơi buôn bán đồ đoàn của tuổi thơ, cùng với cơm nguội, hến luộc và các loại rau sống,… nhưng không thiếu khế chua, rau thơm, môn ngọt, bắp chuối. Ngày này sang ngày nọ các o, các chị lại gánh lửa hồng và dư vị dòng Hương cùng ngọn khói hư ảo đi khắp kinh thành. Và mùi hương thầm lặng đó đã lay động tâm hồn của Hạ Nguyên: Gánh cơm hến của em đi trong sương Tôi nhìn thấy lễ hội của rau cỏ mười ba hay mười bốn những đoàn xiếc xanh và đỏ treo ngược những cay-đắng-ngọt-bùi trộn lẫn những chiêm nghiệm của dòng Hương qua nghìn triệu mắt hến Thời trước, nhìn mặt khách hàng là mấy o bán cơm hến nêm gia vị đúng cho mỗi người, những lúc đông khách thì người thưởng ngoạn cơm hến sẽ tự nêm cho vừa khẩu vị mình. Phải chăng điều này phần nào đã giúp cho người Huế không vụng về trong việc bếp núc. Thật ra, hến ở xứ Huế không phải luôn luôn ngậm ngùi trong thân phận khép mình trong đôi vỏ khiêm nhường kia, mà với dòng Hương giang như chiếc lưỡi nối dài từ tận miệt núi rừng ra đến đại dương, hến đã nếm trải bao hương vị cuộc đời và gửi cho loài người một thông điệp: hãy tự thanh lọc chính mình giữa dòng đời nghiệt ngã. L.H.L (SĐB 10-2010) |
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.