Thơ với người đọc trong quan niệm của Chế Lan Viên

09:48 17/03/2009
TRẦN HOÀI ANH1. Nhà thơ - Người đọc: Niềm khắc khoải tri âmKhi nói về mối quan hệ giữa nhà thơ và độc giả, Edward Hirsch đã viết: “Nhiều nhà thơ đã nắm lấy ý Kinh Thánh Tân Ước “Khởi thuỷ là lời”, nhưng tôi thích ý kiến của Martin Buber trong “Tôi và bạn” hơn rằng: “Khởi thuỷ là những mối quan hệ” (1).

Thật vậy, “khởi thuỷ các mối quan hệ” vì có mối quan hệ mới tạo ra lời. Trong thơ, điều ấy lại càng có nghĩa. Nói đến thơ là nói đến mối quan hệ giữa Nhà thơ- Tác phẩm-Người đọc. Trong đó, mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc là mối quan hệ đặc biệt. Theo Chế Lan Viên, “giữa tác giả và độc giả có mối quan hệ tri âm tri kỷ, nghe một chữ cũng hiểu nhau, có khi chỉ cần hiểu ngầm” (2). Ông còn chỉ rõ: đây mà mối quan hệ biện chứng. Người đọc là niềm khắc khoải tri âm của nhà thơ: “Tuổi tên là phù vân/Ông chỉ mong ta bền một chữ tâm/ Nhỏ một giọt sương người trên khoé mắt/ Cái Nguyễn chờ là giọt lệ hồi âm”. (Lệ hồi âm). Và ngược lại, nhà thơ cũng chính là niềm khắc khoải tri âm của người đọc:
            Bạn đọc cần những bài thơ như tâm hồn thứ hai của họ.
            Ngoài tâm hồn họ ra, họ cần thêm một tâm hồn.
            Sao anh tả cảnh, tả nhà, tả ao, tả phố...
            Để thêm anh vào họ rồi, cho họ trăm thứ rồi, họ vẫn cô đơn.
                                                                          (Thơ và bạn đọc)

Riêng về mối quan hệ giữa người đọc với nhà thơ, Chế Lan Viên còn chỉ rõ: “Người đọc tìm đến nhà thơ, là để đòi hỏi một cách sống, không  phải chỉ hỏi lý tưởng như với một nhà triết học, mà hỏi cách cảm xúc, cách thương, cách nhớ, cách giận, cách ghét như với một người yêu”(3). Bởi lẽ nói đến sáng tạo và tiếp nhận là nói đến cuộc đối thoại giữa tác giả và người đọc thông qua tác phẩm. Cuộc đối thoại ấy là cuộc đối thoại của những kẻ tri âm, của những tâm hồn đồng điệu tìm đến những tâm hồn đồng điệu. Quan niệm này của Chế Lan Viên cũng tương đồng với quan niệm của Tố Hữu: “Thơ là chuyện đồng điệu. Nó là tiếng nói của người nào đó đến với những người nào đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở đồng ý, đồng tình” (4) và rất gần với quan niệm: “bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho người đọc” của Nguyễn Đình Thi (5). Thật ra quan niệm về mối quan hệ tri âm của Chế Lan Viên cũng như của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi đều bắt nguồn từ quan niệm tri âm của lý luận tiếp nhận truyền thống phương đông: “Tri âm thực là khó thay, cái âm thực là khó biết, người biết thực là khó găp. Gặp được người tri âm nghìn năm mới có một lần” (Lưu Hiệp)(6). Song điều đặc biệt của Chế Lan Viên ở đây là ông đã tiếp nhận nó một cách linh hoạt trên cơ sở kết hợp với quan niệm tiếp nhận hiện đại. Với Chế Lan Viên, tri âm là chuyện để suy tư, để suy tưởng, để đối thoại giữa nhà thơ và người đọc. Và mỗi độc giả có một cách đọc khác nhau tuỳ vào tuổi tác, tâm lý, vị thế xã hội,... của mình: “Đọc thơ, có người như nhà thực vật/Đọc mùa quả, hoa chói mắt/Có người như nhà địa chất/Đọc ngầm cái gì ở sâu trong đất,/Cái mạch ngầm văn bản phía sau văn./Kẻ đọc dương, người lại nghe cái âm âm./Cái nhạc trưởng chỉ huy trong tiềm thức” (Đọc thơ mạch ngầm văn bản). Tuy không đề cập đến “tầm đón đợi của người đọc”, một phát hiện có tính chất hạt nhân của mỹ học tiếp nhận, nhưng quan niệm của Chế Lan Viên rất gần với quan điểm của lý luận tiếp nhận hiện đại phương Tây.

Và cũng xuất phát từ quan niệm mới về người đọc, mà quan niệm về mối quan hệ tri âm giữa nhà thơ với người đọc của Chế Lan Viên là quan niệm mở, chứ không khép như quan niệm truyền thống. Với Chế Lan Viên, muốn có tri âm nhà thơ phải chủ động hướng đến các loại người đọc:
            Làm thơ có lúc như lấy người điếc lác ù tai làm bạn tri âm,
            Cứ phải hét vào tai những tiếng nói thầm.
            Làm thơ có lúc là thi sĩ câm
            Ra hiệu bằng tay, bằng mắt, bằng toàn thân,
            Đóng kịch để nói điều rất thật
                                                              (Tri âm)

Và cái gốc của tri âm theo ông chính là ở tấm lòng, là sự cảm thông, độ lượng, đồng cảm: “Người đọc người, thương nhau/Ta cần chi giữ kẽ/Ai tri âm tri kỷ/Xin mở lòng trời bể/Gặp mỗi dòng mỗi ý/Tìm lòng ta phía sau” (Đề từ).
Chế Lan Viên đã viết hàng loạt bài thơ về đọc Kiều, đối thoại với Nguyễn Du, Nguyễn Trãi như: Đọc Kiều; Nghĩ thêm về Nguyễn; Lệ hồi âm, Kỷ niệm Nguyễn Du; Đọc Kiều một ngày kia; Thơ Nguyễn Trãi... Dù là cách biểu đạt khác nhau nhưng tất cả những bài thơ ấy đều thể hiện quan niệm vừa truyền thống vừa hiện đại về mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc-một vấn đề của lý thuyết tiếp nhận. Tuy nhiên, người đọc trong quan niệm của Chế Lan Viên xét trong quan hệ với nhà thơ không chỉ là tri âm mà còn là người đồng hành trong sáng tạo thơ ca.

2. Nhà thơ - Người đọc: Sự đồng hành trong sáng tạo thơ ca

Lý thuyết tiếp nhận hiện đại đã chỉ ra rằng: người đọc không chỉ là người tiếp nhận tác phẩm một cách thụ động mà là người lấp đầy khoảng trống trong tác phẩm, là người đồng sáng tạo với nhà thơ bởi “Mỗi tác phẩm văn học là một tiếng gọi” (J.P. Sartre)(7). Đây chính là tính chất mở của văn bản nghệ thuật, là “điều kiện của mọi sự thưởng thức thẩm mỹ, và tất cả mọi hình thức thưởng thức, nếu mang giá trị thẩm mỹ đều mở” (Umberto Eco)(8). Không biết Chế Lan Viên đã tiếp cận lý thuyết tiếp nhận hiện đại ở thời điểm nào hay là sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn? Chỉ biết rằng những câu thơ ông viết về người đọc như là sự chuyển hoá ngôn ngữ lý luận sang ngôn ngữ hình tượng và biểu cảm của thơ: “Rồi tác phẩm rời anh như con thuyền rời bến/Sống cuộc đời riêng anh không dự kiến/Nó trôi đến các thời gian xa, những năm tháng mơ hồ/Với ngọn gió anh thổi vào buồm trang giấy lúc xa bờ./(...)/Nhưng từ đấy bổ sung anh, đối lập anh, tác phẩm sống riêng mình/May ra người ta tìm ở đáy thuyền, hạt gạo, đó là anh” (Con thuyền).

Như vậy, trong quan niệm của Chế Lan Viên, người đọc hiển nhiên trở thành người đồng sáng tạo với nhà thơ. Và sự sáng tạo của người đọc nhiều khi tạo ra cho tác phẩm những ý nghĩa mới mà chính tác giả, người sáng tạo ra tác phẩm cũng không ngờ đến. Điều này cũng rất gần với quan niệm của nhóm Xuân Thu Nhã Tập: “Làm xong một bài thơ, người thi sĩ chưa thể gọi đã hoàn tất sáng tác của mình mà phải chờ đợi một tác giả thứ hai, tức là độc giả” (9). Việc đồng sáng tạo của người đọc cũng là một quy luật tất yếu trong tiếp nhận thơ ca. Bởi vì “không nên quan niệm tác phẩm như một cái gì đó cố định, bất biến, trái lại về hình thức cũng như về nội dung, nó mang ý nghĩa của một cuộc đối thoại” (Huỳnh Như Phương) (10). Và cuộc đối thoại trong tác phẩm thơ chính là cuộc đối thoại giữa tác giả và người đọc mà trong đó người đọc là người đồng sáng tạo, là người viết tiếp những trang thơ, là đối tượng mà nhà thơ luôn hướng đến. Điều này đối với Chế Lan Viên không chỉ là quan niệm mà còn là một tâm niệm, một ý thức trách nhiệm của người cầm bút: “Tôi viết cho ai? Cho cả mọi người” (Nghĩ về thơ).

Chế Lan Viên trong quan niệm của mình đã tự nguyện lấy người đọc làm động lực sáng tạo. Vì thế đối với ông, nhà thơ cần phải quan tâm đến người đọc, phải xem những nhu cầu của người đọc là mục đích sáng tạo của thơ ca: “Tả một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen hồ/Phải giấu tình cảm của anh đi như ém quân trong rừng vắng/Chỉ vì anh nghĩ đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên trang giấy/Đang bơi thuyền giữa sen hồ bỗng bắt gặp môi son” (Tín hiệu).
Văn Cao khi bàn đến vai trò của người đọc đã viết: “họ không muốn nghe lại những lời đã cũ như không muốn mua lại những đồ cũ mà họ thải đi từ lâu rồi” (11). Như vậy, cả Văn Cao và Chế Lan Viên cũng đều nhận ra rằng: những đòi hỏi của người đọc chính là động lực để nhà thơ phát huy cá tính sáng tạo của mình. Và bởi người đọc là người đồng hành trong sáng tạo, là động lực sáng tạo của nhà thơ nên chính người đọc cũng là người quyết định số phận của thơ ca.

3. Người đọc, “vị quan toà” quyết định số phận của thơ ca
Khi bàn đến vai trò của người đọc trong việc thẩm định giá trị của thơ, Chế Lan Viên đã chỉ ra rằng: “Và những giọt lệ rưng rưng trên mi người đọc/Ngọc của người còn trong gấp mấy/Ngọc thơ anh”(Lệ ngọc). Và khi người đọc trở thành nhân tố quyết định sự sáng tạo của nhà thơ, thì theo ông, họ có quyền tiếp nhận hoặc không tiếp nhận thơ nếu thơ ấy không phải là thứ tinh hoa được kết tinh từ tài năng và lao động nghệ thuật của nhà thơ, nghĩa là họ có quyền quyết định sự tồn tại của nhà thơ và xác quyết giá trị của thơ:
            Ôi! chỉ cần một độc giả dù vô tâm đến mấy
            Là cũng đủ cho nhà thơ thoát khỏi vạc dầu
            Và bay lên chín tầng cao.
                                         (Sợ nhất)

Chính vì nhận thức sâu sắc điều này nên Chế Lan Viên luôn trăn trở khi nghĩ về mối quan hệ giữa nhà thơ và người đọc: “Nghìn lẻ một câu thơ viết ra, người ta quên cả một nghìn/May lẻ một có người còn nhớ đời nhớ mãi/Nếu lẻ hai, lẻ ba, lẻ tư nữa thì hay quá/Ấy thế mà đã được nghìn câu đâu, mong lẻ nỗi gì?” (Nghìn lẻ). Không những thế, trong quan niệm về mối quan hệ Nhà thơ-Người đọc, Chế Lan Viên còn đề cập đến một loại người đọc đặc biệt đó là nhà phê bình. Ông cho rằng quan hệ giữa nhà thơ với nhà phê bình như quan hệ vợ chồng: “Nàng yêu chồng, hẳn thế rồi, nhưng đôi khi thường e ngại ông ta và nàng thích đi dạo một mình... Nhưng làm sao nàng ta có thể sống không có anh ta được chứ, anh ta với tất cả khuyết điểm đáng yêu đáng ghét của mình” (Thơ và phê bình) (12), như là quan hệ bè bạn: “Thơ và phê bình, phê bình và thơ, chỉ có hai bạn trên đường ấy thôi mà. Trái tim và khối óc, cái cá nhân và cái xã hội, ý thức và vô thức, thơ và phê bình, đấy chỉ là hồng cầu và bạch cầu của một sức khoẻ chung”(13). Chế Lan Viên cũng đã phân định rõ các loại nhà phê bình: “Nhà phê bình đại diện cho lý trí, không phải thứ lý trí hách dịch, ba hoa, thứ lý giết chết cả thơ lẫn lý “càng luận vào càng đuối lý ra” mà đó là “một thứ lý biết điều, có lý có tình, nhân hậu, nó là người tâm sự của chính tác giả”(14). Ông cho rằng nhà phê bình thơ vừa phải có “tâm” nhưng cũng cần phải có “tầm”, phải có năng lực cảm thụ thơ để “phê bình có thể thấy xa, chỉ vì nó đã được hứng cảm bởi hồn thơ không có thơ trong hồn, anh chỉ có thể thốt lên những lời càu nhàu, chửi rủa, chứ đâu có phải phê bình”(15). Chính vì thế, điều ông sợ nhất là kiểu phê bình xoi mói, thiếu thiện chí, sẵn sàng ném nhà thơ vào vạc dầu của quỉ: “Sợ nhất khi xuống địa phủ, bên vạc dầu của quỷ/Lại thi nhân cùng thi nhân chạm trán, va đầu./Nếu bên vạc dầu có nhà phê bình cầm roi càng nguy hơn nữa/Dẫu nhà thơ có chạy trốn đi thì phê bình gia cũng tóm cổ ném vào!” (Sợ nhất). Quan niệm về nhà phê bình như một đối tượng tiếp nhận của Chế Lan Viên cũng là một điểm nhìn rất gần với lý thuyết tiếp nhận hiện đại. Và đây chính là những nét độc đáo trong quan niệm của Chế Lan Viên về quan hệ giữa thơ với người đọc.

Mặt khác, ở bình diện quan niệm của Chế Lan Viên về quan hệ Nhà thơ và Người đọc cũng có sự vận động. Nếu trước kia trong Điêu tàn, người đọc trong quan niệm của Chế Lan Viên cũng phải khác thường, nghĩa là: “Đọc tập Điêu tàn này xong (...) mà cái Buồn, cái Chán, cái Hãi hùng cùng ùa nhau đến bọc lấy hồn anh làm cho anh phải cười, phải gào, phải khóc, thì xin anh chớ hẹp hòi gì mà cười cho mênh mang, gào cho vỡ cổ, khóc cho hả hê rồi gửi cái cười, cái gào, cái khóc ấy cho không trung” (16) thì về sau này, đặc biệt là từ khi đi theo cách mạng và kháng chiến, quan niệm về Nhà thơ-Người đọc của Chế Lan Viên đã có sự thay đổi. Nhà thơ bây giờ không còn là Tinh, là Ma...mà là con người trần thế gắn số phận mình với số phận nhân dân, và người đọc trong thơ ông lúc này là những người bình thường gần gũi, nhà thơ sáng tác là để hướng về họ, dành cho họ:
            Những phong thư anh gửi cho hư vô đều bị trả về
            Dù tem vẽ các vĩ nhân, thần thánh.
            Chi bằng anh đưa cho cô hàng xóm ở hàng rào bên cạnh
            Viết cho người độc giả bình thường gần gụi đọc thơ anh.
                                                                        (Thơ cao cả)

Tóm lại: Cũng như Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu, Văn Cao...Chế Lan Viên đã thấy được vai trò của người đọc trong việc tiếp nhận thơ ca. Nhưng nếu các nhà thơ khác chú trọng đến sự tác động của nhà thơ đối với người đọc: “Người làm thơ biết thành lập cho mình một cá tính trong suy nghĩ, trong tình cảm, trong cảm giác những điều mới lạ bao nhiêu là làm phong phú thêm cho người đọc về mặt tư tưởng cảm xúc hay cảm giác. Người đọc bị cuốn sau cùng vào cái khuynh hướng của nhà thơ” (Văn Cao)(17) thì Chế Lan Viên lại chú trọng đến sự tác động của người đọc đối với quá trình sáng tạo của nhà thơ. Người đọc trong quan niệm của ông là người quyết định sự tồn tại của thơ ca và ảnh hưởng đến tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ. Và điều sợ nhất với ông là “không có độc giả”, không có người đồng cảm với nhà thơ nghĩa là không có người nối dài cuộc sống cho những câu thơ: “Chả có gì sủi tăm ở cái hồ lãng quên anh ném câu thơ vào đó/May ra thế kỷ sau, từ viên sỏi thơ anh sủi lên giọt máu như máu con bông bống/”Bống bống bang bang!”... Sẽ có người đến bên hồ mà gọi thơ anh/Câu thơ trồi lên, đáp lại tiếng gọi mình” (Sủi tăm). chính điều này tạo nên sự độc đáo trong quan niệm về thơ của Chế Lan Viên, chi phối mạnh mẽ đến quan niệm thơ của ông không những ở bình diện thơ với người đọc mà còn ở nhiều bình diện khác của thơ.
T.H.A
(197/07-05)


----------------------------
(1) Edward Hirsh “Thơ và độc giả”, Báo thơ số (7,8 tháng 1+2/2004) tr. 30
(2,12,13,14,15) Chế Lan Viên, Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân, Nxb Tác phẩm Mới, Hà Nội, 1981 tr. 96,113,115,116.
(3) Chế Lan Viên, Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1981 tr. 81.
(4) Tố Hữu, Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 441.
(5)Nguyễn Đình Thi “Mấy ý nghĩ về thơ”, Báo thơ số (2, Qúi II/2003) tr. 24.
(6) Lưu Hiệp, Văn Tâm Điêu Long, Nxb Văn học Hà Nội, 1999 tr. 270.
(7) J.P.Sartre, Văn học là gì? Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1999,tr. 63.
(8) Trương Đăng Dung, Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr. 12.
(9) Nguyễn Tấn Long, Việt thi nhân tiền chiến (quyển thượng), Sống Mới xuất bản, Sài Gòn, 1972, tr. 449.
(10) Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr. 139,140.
(11,17) Tuyển tập Văn Cao thơ, Nxb Văn học, Hà Nội, 1994, tr. 152, 154.
(16)Võ Gia Trị, Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001, tr. 9.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.