Thơ Việt - nhìn lại và suy nghĩ

09:39 27/08/2009
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

Nhà phê bình Hồ Thế Hà - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Chế Lan Viên có hai câu thơ so sánh rất thú vị về hai hình tượng mà từ trước đến nay, nhiều người thường liên hệ sóng đôi với nhau: thi ca và người đẹp “Thơ hay như người đẹp - Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng”. Bản chất hai câu thơ trên bao hàm việc đề cao giá trị, vẻ đẹp của thi ca và thị hiếu của người tiếp nhận. Thơ hay cũng như thiếu nữ đẹp thời nào cũng có, không nhiều thì ít, ở nơi này hoặc nơi khác... do nhiều tố chất tạo nên. Thơ hay và thiếu nữ đẹp, theo tôi hiểu là rất đa dạng chứ không phải chỉ đồng dạng (uniform). Thưởng thức và chiêm ngưỡng chúng là tuỳ ở con mắt đa tình và gout thẩm mỹ của từng người, miễn là chúng phải có thuộc tính đẹp và hay; phải lấp lánh màu sắc và trí tuệ, tức chúng phải đẹp và lạ ở vẻ ngoài trong sự hài hoà với phẩm hạnh và tư tưởng mỹ học ở bên trong.

Thơ hay là thơ nói được cái vi diệu nhất của cuộc sống và tình cảm con người, nó khiến người ta phải cảm xúc, suy tư và chiêm nghiệm để sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn, nhân bản hơn. Nhà thơ Lê Đạt cũng đã nói: “Thơ là một cố gắng về mỹ học, cũng là một cố gắng về đạo đức học” (Thư Eiffel, Sông Hương, số 3-1998). Hơn bất kỳ một thể loại nghệ thuật nào khác, thơ có quyền năng và sức mạnh ấy. Và mỗi nhà thơ, bằng tài năng của mình, bao giờ cũng cố gắng vươn lên tầm của nhà tư tưởng, nhà mỹ học, đạo đức học... Như vậy, thơ hay, tự nó không giới hạn ở phạm vi nào về hình thức và nội dung. Nó mở ra và sáng tạo mới không ngừng về hình thức biểu hiện và kiểu tư duy, miễn là phải hay, phải độc đáo, hấp dẫn. Điều đó được lịch sử thi ca của các dân tộc minh chứng một cách thuyết phục.

Ở Việt Nam ta, từ văn chương bình dân đến văn chương bác học, trải qua các thời kỳ, giai đoạn đều có thơ hay, có tác giả nổi bật. Mãn Giác thiền sư, Không Lộ thiền sư, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... cùng với những trang thơ lấp lánh tài năng sống mãi trong lòng dân tộc. Thơ họ là tiếng nói về mình, về thân phận con người, về thời đại một cách nghệ thuật, qua đó, hiện lên nỗi niềm tri âm, đồng cảm với chung quanh một cách sâu sắc.

Đến thời kỳ hiện đại, lại xuất hiện những thế hệ nhà thơ tài danh mà tác phẩm của họ là thước đo cho những hằng số lịch sử - thi ca mới mẻ. Từ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu - người được Hoài Thanh gọi là cái gạch nối của hai thời đại thi ca đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Tuấn Khải, Huỳnh Thúc Kháng... là cả một tiến trình tiệm biến và tích hợp những phẩm chất thơ theo khuynh hướng dân chu, hiện đại để dẫn đến một “cuộc cách mạng trong thơ ca” giai đoạn 1930 - 1945 mà đỉnh cao là Phong trào Thơ mới lãng mạn với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân (individu) tự do và thành thật. Hàng loạt thi nhân xuất sắc góp mặt trên thi đàn: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận, Bích Khê, Nguyễn Bính... Mỗi người làm nên một phong cách thơ, một “con mắt thơ” độc đáo. Phong trào thơ này trước khi hạ cánh, nó đã kịp tạo ra các khuynh hướng mới với quan niệm và khát khao sáng tạo táo bạo, dù hệ quả thơ không đủ sức để minh định cho những tuyên ngôn tân kỳ: Xuân Thu Nhã Tập, Dạ Đài... Vậy là, thơ ca tự nó phải điều chỉnh những so le với chính nó và với lịch sử - xã hội, nếu nó muốn tồn tại có ích và hợp qui luật. Giờ đây, thơ ca cách mạng nhanh chóng chiến lĩnh thi đàn và trở thành giá trị tinh thần lớn lao của thời đại - mà người đặt nền móng cho kiểu tư duy thơ này chính là nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu và... Suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, nền thơ ca cách mạng được hình thành bởi những nhà thơ kiểu mới: nhà thơ - chiến sĩ.

Các thế hệ nhà thơ trong kháng chiến chống Pháp, tiếp đến là các thế hệ nhà thơ trong kháng chiến chống Mỹ đã thực sự tạo thành lực lượng đông vui và làm nên thi pháp đặc sắc của thời đại mà trước đó, chưa từng có. Thơ họ mới mẻ về ngôn từ, đa dạng về giọng điệu, phong phú, bề bộn về hiện thực cuộc sống... Rồi đến giai đoạn hoà bình thống nhất Đất nước từ 1975 đến nay, thơ Việt lại làm một cuộc hành trình mới với sự cộng sinh của nhiều phong cách thơ, nhiều thi pháp thơ phát sinh, tân kỳ. Các nhà thơ thời chống Mỹ giờ đây chiếm lĩnh thi đàn. Họ chín lại và có những bứt phá trong sáng tạo. Những yếu tố ổn định bên cạnh những yếu tố mới không lặp lại trong tư duy thơ của các nhà thơ này đã làm cho thơ Việt đương đại khởi sắc và tiến những bước dài. Đó là trường hợp của Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Hoàng Hưng, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Thu Bồn, Bùi Minh Quốc... Rồi bắc qua thế hệ thơ trưởng thành trong hoà bình, họ lại tìm cho mình tiếng nói riêng đầy bản lĩnh và độc đáo: Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Trần Cương, Phùng Khắc Bắc, Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn, Đoàn Thị Lam Luyến, Phạm Thị Ngọc Liên... Và gần đây, dư luận quan tâm đến các cây bút trẻ: Nguyễn Quyến, Văn Cầm Hải, Vy Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Huyền Thư, Lê Thị Mỹ Ý... Thơ của các cây bút trẻ này có cái táo bạo, dữ dội trong thể nghiệm, luôn tìm cái mới, dù không phải lúc nào họ cũng thành công. Chúng tôi muốn kể đến trường hợp các nhà thơ lớp trước như: Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng... Những tác giả này có nhiều trăn trở về nghề, về thơ trong giai đoạn sau 1975. Những trải nghiệm và kiếm tìm của họ trong thơ được nhiều người quan tâm ca ngợi, nhưng cũng không ít người chưa thừa nhận sự đổi mới thi ca của họ, nói theo đúng nội hàm của nhóm từ này. Nhưng dù gì, những cố gắng về mỹ học thơ của họ cũng để lại cho thế hệ trẻ những bài học kinh nghiệm bổ ích.

Chúng tôi muốn lướt qua tiến trình thơ Việt như trên là để khẳng định lại một điều rằng thơ hay và nhà thơ xuất sắc thời nào cũng có. Và giá trị của thơ, của từng nhà thơ là độc đáo, không thay thế, không thể phủ định, bất luận họ thể hiện tâm trạng, hiện thực, cảm xúc gì và với một hình thức ngôn từ như thế nào. Điều đó cũng có nghĩa là, chúng tôi quan niệm thơ hay là thơ trong một hình thức nhất định, nói được tình cảm, cuộc sống trong quan hệ với cõi đời, kiếp người khiến người ta xúc động, yêu thương, vui buồn và đau khổ... Hồn thơ, tứ thơ... là quan trọng hơn cả. Hình thức nào cũng được, miễn là nó hài hoà và chuyển tải tư tưởng tốt nhất mới là cái đích của nhà thơ. Chế Lan Viên rất sâu khi viết:

            Anh đắn đo chi câu ngắn với câu dài
            Mưa Bắc lòng hay Nam lòng cũng thế
            Hoa sen tím, hoa sen hồng đều là em đấy cả
            Và buồn lau hay buồn sậy cũng buồn thôi
                                               
(Đàng nào cũng vậy)

Nghĩa là làm sao bên sau những câu thơ là tinh tuý của chữ nghĩa, của hồn thơ: “Câu hay ư? Là câu không còn chữ nữa - Lửa cháy lên rồi, chỉ còn có lửa”. Thơ hay là thơ hồn cốt, là sự thăng hoa của cảm xúc và tâm trạng, của những vui buồn, ân nghĩa quanh đời.

2. Vậy một câu hỏi đặt ra là làm sao để có thơ hay? Và làm sao để có, ngày càng nhiều, thơ hay? Dù ai có hô hào là cách tân, hiện đại, là thi pháp mới đến đâu... mà không có thơ hay thì mọi sự tuyên ngôn cũng trở thành vô nghĩa, cũng chỉ là sự bất lực trước ảo tưởng của chính mình theo phép thắng lợi tinh thần mà thôi.

Tôi muốn liên hệ đến thơ trên các tạp chí các tỉnh miền Trung mà tôi có đọc được: như Tạp chí Sông Hương, Hồng Lĩnh, Xứ Thanh, Sông Lam, Nhật Lệ Cửa Việt . Vì sao số lượng thơ đăng tải trên các tạp chí này với chỉ số lớn mà vẫn vắng thiếu thơ hay, nói đúng hơn, ít có những bài thơ neo được trong lòng độc giả rộng rãi kiểu: Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Nguyệt Cầm của Xuân Diệu, Ngậm Ngùi của Huy Cận và...

Điều này do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, mà theo tôi, chủ quan là nhiều hơn. Nhớ hồi nhóm Xuân Thu Nhã Tập hoặc Dạ Đài..., các thành viên đều nồng nhiệt tuyên ngôn và tiên phong sáng tạo, nhưng rốt cuộc, chỉ có một vài bài được người đọc biết đến, chứ không phải là hay nhất, ví như Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh, Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ... Như thế, mới thấy thể loại thơ là vô cùng khó khăn và là thách thức lớn đối với người sáng tạo. Có người cả đời theo đuổi nghiệp thơ, nhưng có được mấy bài thơ hay; có người trong một khoảnh khắc xuất thần nào đó, lại để cho đời những bài thơ nổi tiếng. Nhiều người bàn đến yếu tố lóe sáng của trực giác, trực cảm; sự mách bảo của tiềm thức, vô thức... Điều này, đúng một phần, nhưng người làm thơ, nếu quả cứ chờ sự loé sáng và sự mách bảo ấy thì biết bao giờ mới có được thơ hay. Ở đây, phải thực sự khách quan, dựa vào tài năng và sự lao động nghệ thuật của nhà thơ là chủ yếu. Không ai thay nhà thơ để làm được việc này.

Thơ trên 6 tạp chí của các tỉnh Bắc miền Trung, công bằng mà nói, không sút kém so với cả nước, đặc biệt, so với trung ương. Các nhà thơ tại chỗ phải nói là hùng hậu và sáng giá, nhưng để tập hợp thơ hay của từng tạp chí làm thành một tuyển thì quả là khó. Điều này, theo tôi, có mấy nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, và chủ yếu, là tính địa phương của tờ tạp chí qui định. Tạp chí, bên cạnh việc phản ánh đời sống sáng tạo và học thuật có tính phát hiện phổ quát và mới mẻ, lại phải tuân thủ việc phản ánh và sáng tạo có “tính địa phương, vùng”. Do vậy, một số sản phẩm và một số tác giả chưa đạt trình độ cao cũng có thể chấp nhận mà không phải theo “chuẩn mực” như trung ương. Tính nâng đỡ, phát hiện và động viên, bồi dưỡng các cây bút trẻ mới vào nghề còn diễn ra phổ biến ở các tạp chí này.

Thứ hai là bản thân người viết cũng chưa thật tìm tòi, lao động một cách công phu, chưa chịu khó phát hiện vấn đề, suy tư, lật trở vấn đề để tìm cách thể hiện chúng tốt nhất. Bên cạnh ấy, tạp chí còn phải chịu “sức ép” từ phía các nhà thơ tên tuổi. Họ thường dành thơ hay của mình cho các tạp chí, tờ báo lớn, sang trọng cấp trung ương, hoạ hoằn lắm mới gửi cho địa phương một số bài không phải là đỉnh.

Thứ ba, phụ thuộc rất nhiều, nếu không muốn nói là quyết định để có thơ hay, lại ở chính người biên tập thơ. Người biên tập thơ có tài, nhạy cảm bao giờ cũng là bà đỡ cho mọi tài năng văn chương, cho mọi tìm tòi, đổi mới thực sự, mà có khi nhiều năm sau, sự phát hiện của người biên tập mới được thừa nhận. Ở ta, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên là một trong những người tiên cảm như thế.

Đối với các hiện tượng mới lạ, táo bạo lại phải cần có các nhà biên tập dũng cảm, bảo vệ và chịu trách nhiệm trước chữ ký biên tập của mình thì mới có được thơ hay. (nói theo nghĩa có đổi mới, lạ - mà mới lạ quá bao giờ cũng bị dị ứng của không ít độc giả quen tư duy theo nếp cũ, qui tắc cũ).

Thứ tư, là vai trò và bản lĩnh của Tổng Biên tập - người quyết định và chịu trách nhiệm cao nhất và cuối cùng của Tạp chí. Muốn vậy, Tổng biên tập phải là người dày kinh nghiệm và có tầm nhìn chiến lược, có văn hoá sâu rộng - nhất là trong lĩnh vực lý luận văn chương. Chân dung Tổng biên tập bao giờ cũng quyết định chân dung của tạp chí và thu hút sự cộng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu. Thực tiễn cho thấy, Tổng biên tập nào cấp tiến, đổi mới và có tầm tư tưởng học thuật cao thì những người cộng tác có tên tuổi, tầm cỡ sẽ tâm huyết ủng hộ ngày càng đông. Và cùng với sự cộng tác ấy là những tác phẩm có giá trị, có vấn đề, khơi động những trao đổi mang tính lý luận và sáng tạo sôi nổi, bổ ích.

Điều cuối cùng, không phải là tất cả và phổ biến, theo tôi, là ở cơ chế hoạt động và thẩm quyền cho một tạp chí địa phương. Phải thật sự tạo điều kiện cho các tạp chí hoạt động nghệ thật đích thực trong khuôn khổ của tự do báo chí và tự do sáng tạo theo đúng chủ trương và luật định, nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ bạn đọc tốt nhất. Phải bảo đảm và khuyến khích sự tìm tòi, đổi mới và tranh luận dân chủ để tìm ra chân lý, tìm ra cái mới trong lý luận, phê bình và sáng tác, tránh những áp đặt theo thiên kiến riêng của một vài cá nhân có chức quyền. Thực tế cho thấy, không khí dân chủ và cởi mở trong hoạt động văn nghệ những thập niên qua của Đảng và Nhà nước ta đã thúc đẩy nền văn học tiến lên một tầm mới, phát hiện nhiều tài năng và đặc biệt là xuất hiện những tác phẩm có giá trị có thể sánh vai với các nền văn học thế giới với cách thể hiện mới, hiện đại. Nhưng không phải không còn một số nơi, một số trường hợp có sự thiếu tôn trọng và nặng nề đối với công tác này. Sự thiếu trao đổi, tìm ra cái đúng - vì nghệ thuật có tính đa nghĩa, hàm súc, biểu trưng, khó nắm bắt bản chất nội hàm của chúng - sẽ dấn đến sự áp đặt và mệnh lệnh, làm cho tờ tạp chí e ngại và thiếu tự tin trong hoạt động của mình (dĩ nhiên là chúng ta phải thực hiện những góp ý và yêu cầu đúng, có tác dụng định hướng sáng tạo và phát triển chất lượng của  tạp chí).

Trên đây là những suy nghĩ tản mạn của chúng tôi trong Festival thơ Huế lần này. Chúng tôi hy vọng từ diễn đàn này, chúng ta, những người tận tâm, tận lực vì văn học nghệ thuật sẽ có tiếng nói dân chủ, thực sự tâm huyết, có sự đồng điệu, tri âm của tình thi hữu vì một khát vọng chân chính, vì cái hay và cái đẹp đích thực, làm sáng giá, sáng danh cho thi ca Việt Nam trong hiện tại và lâu dài.

Huế, tháng 5-2004
H.T.H
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI THU LANThông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này băt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động của xã hội.

  • HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

  • FRANÇOIS JULLIEN                                        LTS: Hạ tuần tháng tư năm 2001, nhà triết học F.Jullien đến thăm Hà Nội nhân dịp lần đầu tiên công trình của ông được giới thiệu ở Việt Nam trong văn bản tiếng Việt (Xác lập cơ sở cho đạo đức- N.x.b Đà Nẵng, 2000). Cuối năm nay sẽ được xuất bản bản dịch công trình Bàn về tính hiệu quả ( F.Jullien. Traité de l’efficacité.Grasset, 1997). Sau đây là bản dịch chương III của tác phẩm này (do khuôn khổ của tạp chí, có lược đi một số đoạn). Nhan đề do chúng tôi đặt. Trong bài, số thiên đơn thuần (chẳng hạn th.81) là số thiên trong sách Đạo Đức Kinh còn gọi là sách Lão tử.

  • NGÔ MINH Tôi quen biết với anh Tường hơn 25 năm nay ở Huế như một người bạn vong niên thân thiết. Trong máy tính của tôi còn lưu trữ bài Anh Tường ơi viết từ năm 1998, gần 3000 chữ chưa công bố. Đó là bài viết mà nhà văn Nguyễn Quang Hà, Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương lúc đó, bảo tôi viết, sau chuyến chúng tôi đi thăm anh Tường bị trọng bệnh đang nằm hôn mê ở Bệnh viện Đà Nẵng về.

  • HỒ THẾ HÀHoàng Phủ Ngọc Tường dấn thân vào nghiệp bút nghiên bằng thơ cùng những năm tháng "hát cho đồng bào tôi nghe" sục sôi nhiệt huyết đấu tranh chống thù và ước mơ hòa bình trên quê mẹ Việt yêu dấu.

  • PHẠM PHÚ PHONG"Tôi ngồi nhớ lại tất cả nỗi trầm tư dài bên cạnh mớ hài cốt khô khốc của anh Hoàng. Trước mắt tôi, tất cả cuộc sống đầy những hùng tráng và bi thương vốn đã từng tồn tại trên mảnh đất rừng này, giờ đã bị xoá sạch dấu tích trong sự câm nín của lau lách. Như thế đấy có những con đường không còn ai đi nữa, những năm tháng không còn ai biết nữa, và những con người chết không còn hắt bóng vào đâu nữa...

  • LÊ THỊ HƯỜNG1. Yêu con người Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thơ, quý con người Hoàng Phủ trong văn, tôi đã nhiều lần trăn trở tìm một từ, một khái niệm thật chính xác để đặt tên cho phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.

  • TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCXuất thân từ một gia đình hoàng tộc, cử nhân Hán học, giỏi chữ Hán, thông thạo chữ  Pháp, từng làm quan dưới thời Nam triều, nhưng Ưng Bình Thúc Giạ Thị là một nhân cách độc đáo.

  • HỮU VINH Chúng ta đã thưởng thức thơ, ca Huế, ca trù, hò, tuồng của thi ông Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một nhà thơ lừng lẫy của miền sông Hương núi Ngự. Nhưng nói đến sự nghiệp văn chương của thi ông mà không nói đến thơ chữ Hán của thi ông là một điều thiếu sót lớn.

  • ĐỖ LAI THÚYQuang Dũng nói nhiều đến mây, đặc biệt là mây trời Sơn Tây, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm! Mây là biểu tượng của tự do, của lãng du. Mây trắng là xứ sở của tiêu dao trường cửu. Chất mây lãng tử ở Quang Dũng, một phần do thổ ngơi xứ Đoài, phần kia do văn học lãng mạn.

  • CAO XUÂN HẠOĐọc bài Nỗi đau của tiếng Việt của Hữu Đạt (H.Đ) trong tuần báo Văn nghệ số 9 (2-3-2002), tôi kinh ngạc đến nỗi không còn hiểu tại sao lại có người thấy mình có thể ngồi viết ra một bài như thế. Tôi cố sức bới óc ra nghĩ cho ra người viết là ai, tại sao mà viết, và viết để làm gì. Rõ ràng đây không phải là một người hoàn toàn không biết gì về giới ngôn ngữ học Việt . Nhưng hầu hết những điều người ấy viết ra lại hoàn toàn ngược với sự thật.

  • MAI VĂN HOAN.Tôi biết Nguyễn Duy qua bài thơ “Tre Việt ” in trên báo Văn Nghệ. Từ đó, tôi luôn theo sát thơ anh. Mở trang báo mới thấy tên anh là tôi đọc đầu tiên. Với tôi, anh là một trong những người hiếm hoi giữ được độ bền của tài năng.

  • THỦY TRIỀU SUNG HUYỀN"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã từng có nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau. Đành rằng ngôn ngữ thơ ca thường hàm súc, cô đọng, đa nghĩa do đó có thể có nhiều cách tiếp cận tác phẩm.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNMỗi loại hình nghệ thuật ngôn từ đều có phong cách riêng trong cư xử với đối tượng mà nó phản ánh. Chính vì thế, đề tài tiểu thuyết trong khi mang những tính chất chung có của mọi thể loại văn học, nó đồng thời mang những tính chất riêng chỉ có của thể loại tiểu thuyết.

  • VĂN TÂMNhà thơ Bằng Việt (tên thật Nguyễn Việt Bằng) tuổi Tỵ (1941) quê "xứ Đoài mây trắng lắm", là một trong những thi sĩ bẩm sinh của thơ ca Việt hiện đại.

  • THANH THẢOHoàng Phủ Ngọc Tường có tập thơ "Người hái phù dung". Hoa phù dung sớm nở tối tàn, vẫn là loài hoa hiện hữu trong một ngày.

  • JOSH GREENFELDNgười Nhật vốn nổi tiếng vì tính bài ngoại của họ, thể hiện qua nghệ thuật cắm hoa và trà lễ. Tuy nhiên cũng từ rất lâu rồi nhiều nhà văn Nhật Bản vẫn quyết liệt phấn đấu mong tìm kiếm một chỗ đứng đáng kể trên các kệ sách của các thư viện nước ngoài. Họ làm thế không chỉ vì có nhiều tiền hơn, danh tiếng hơn mà còn vì một điều rằng những ai có tác phẩm được dịch nhiều ở nước ngoài thì sẽ được trân trọng, chờ đón ở trong nước!

  • BỬU NAM            Kỷ niệm 200 năm ngày sinh của văn hào Victor Hugo (1802 - 2002)1. Người ta thường gọi Hugo là “con người đại dương”. Bởi sự vĩ đại của tư tưởng và sự mệnh mông của tình cảm của ông đối với nhân dân và nhân loại, bởi sự nghiệp đồ sộ của ông bao hàm mọi thể loại văn học và phi văn học; bởi sự đa dạng của những tài năng của ông in dấu ấn trong mọi lĩnh vực hơn hai thế kỷ qua trong nền văn học và văn hóa Pháp. Đến độ có nhà nghiên cứu cho rằng: Tất cả những vấn đề lớn của nhân loại đều hàm chứa trong các tác phẩm của Hugo như “tất cả được lồng vào tất cả”.

  • LẠI MAI HƯƠNGTiểu thuyết Những người khốn khổ có một số lượng nhân vật nữ rất đông đảo, nhưng mỗi nhân vật mang một sức sống riêng, một sinh lực riêng bởi nghệ thuật xây dựng các nhân vật này không hoàn toàn đồng nhất. Bài viết sẽ đi vào khảo sát một số nữ nhân vật tiêu biểu, bước đầu thử tìm hiểu thủ pháp xây dựng và cái nhìn của Hugo đối với loại nhân vật này.