Thơ Việt - nhìn lại và suy nghĩ

09:39 27/08/2009
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

Nhà phê bình Hồ Thế Hà - Ảnh: Lê Vĩnh Thái

Chế Lan Viên có hai câu thơ so sánh rất thú vị về hai hình tượng mà từ trước đến nay, nhiều người thường liên hệ sóng đôi với nhau: thi ca và người đẹp “Thơ hay như người đẹp - Ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng”. Bản chất hai câu thơ trên bao hàm việc đề cao giá trị, vẻ đẹp của thi ca và thị hiếu của người tiếp nhận. Thơ hay cũng như thiếu nữ đẹp thời nào cũng có, không nhiều thì ít, ở nơi này hoặc nơi khác... do nhiều tố chất tạo nên. Thơ hay và thiếu nữ đẹp, theo tôi hiểu là rất đa dạng chứ không phải chỉ đồng dạng (uniform). Thưởng thức và chiêm ngưỡng chúng là tuỳ ở con mắt đa tình và gout thẩm mỹ của từng người, miễn là chúng phải có thuộc tính đẹp và hay; phải lấp lánh màu sắc và trí tuệ, tức chúng phải đẹp và lạ ở vẻ ngoài trong sự hài hoà với phẩm hạnh và tư tưởng mỹ học ở bên trong.

Thơ hay là thơ nói được cái vi diệu nhất của cuộc sống và tình cảm con người, nó khiến người ta phải cảm xúc, suy tư và chiêm nghiệm để sống tốt hơn, có ý nghĩa hơn, nhân bản hơn. Nhà thơ Lê Đạt cũng đã nói: “Thơ là một cố gắng về mỹ học, cũng là một cố gắng về đạo đức học” (Thư Eiffel, Sông Hương, số 3-1998). Hơn bất kỳ một thể loại nghệ thuật nào khác, thơ có quyền năng và sức mạnh ấy. Và mỗi nhà thơ, bằng tài năng của mình, bao giờ cũng cố gắng vươn lên tầm của nhà tư tưởng, nhà mỹ học, đạo đức học... Như vậy, thơ hay, tự nó không giới hạn ở phạm vi nào về hình thức và nội dung. Nó mở ra và sáng tạo mới không ngừng về hình thức biểu hiện và kiểu tư duy, miễn là phải hay, phải độc đáo, hấp dẫn. Điều đó được lịch sử thi ca của các dân tộc minh chứng một cách thuyết phục.

Ở Việt Nam ta, từ văn chương bình dân đến văn chương bác học, trải qua các thời kỳ, giai đoạn đều có thơ hay, có tác giả nổi bật. Mãn Giác thiền sư, Không Lộ thiền sư, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương... cùng với những trang thơ lấp lánh tài năng sống mãi trong lòng dân tộc. Thơ họ là tiếng nói về mình, về thân phận con người, về thời đại một cách nghệ thuật, qua đó, hiện lên nỗi niềm tri âm, đồng cảm với chung quanh một cách sâu sắc.

Đến thời kỳ hiện đại, lại xuất hiện những thế hệ nhà thơ tài danh mà tác phẩm của họ là thước đo cho những hằng số lịch sử - thi ca mới mẻ. Từ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu - người được Hoài Thanh gọi là cái gạch nối của hai thời đại thi ca đến Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Trần Tuấn Khải, Huỳnh Thúc Kháng... là cả một tiến trình tiệm biến và tích hợp những phẩm chất thơ theo khuynh hướng dân chu, hiện đại để dẫn đến một “cuộc cách mạng trong thơ ca” giai đoạn 1930 - 1945 mà đỉnh cao là Phong trào Thơ mới lãng mạn với sự xuất hiện của cái tôi cá nhân (individu) tự do và thành thật. Hàng loạt thi nhân xuất sắc góp mặt trên thi đàn: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận, Bích Khê, Nguyễn Bính... Mỗi người làm nên một phong cách thơ, một “con mắt thơ” độc đáo. Phong trào thơ này trước khi hạ cánh, nó đã kịp tạo ra các khuynh hướng mới với quan niệm và khát khao sáng tạo táo bạo, dù hệ quả thơ không đủ sức để minh định cho những tuyên ngôn tân kỳ: Xuân Thu Nhã Tập, Dạ Đài... Vậy là, thơ ca tự nó phải điều chỉnh những so le với chính nó và với lịch sử - xã hội, nếu nó muốn tồn tại có ích và hợp qui luật. Giờ đây, thơ ca cách mạng nhanh chóng chiến lĩnh thi đàn và trở thành giá trị tinh thần lớn lao của thời đại - mà người đặt nền móng cho kiểu tư duy thơ này chính là nhà thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu và... Suốt hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc, nền thơ ca cách mạng được hình thành bởi những nhà thơ kiểu mới: nhà thơ - chiến sĩ.

Các thế hệ nhà thơ trong kháng chiến chống Pháp, tiếp đến là các thế hệ nhà thơ trong kháng chiến chống Mỹ đã thực sự tạo thành lực lượng đông vui và làm nên thi pháp đặc sắc của thời đại mà trước đó, chưa từng có. Thơ họ mới mẻ về ngôn từ, đa dạng về giọng điệu, phong phú, bề bộn về hiện thực cuộc sống... Rồi đến giai đoạn hoà bình thống nhất Đất nước từ 1975 đến nay, thơ Việt lại làm một cuộc hành trình mới với sự cộng sinh của nhiều phong cách thơ, nhiều thi pháp thơ phát sinh, tân kỳ. Các nhà thơ thời chống Mỹ giờ đây chiếm lĩnh thi đàn. Họ chín lại và có những bứt phá trong sáng tạo. Những yếu tố ổn định bên cạnh những yếu tố mới không lặp lại trong tư duy thơ của các nhà thơ này đã làm cho thơ Việt đương đại khởi sắc và tiến những bước dài. Đó là trường hợp của Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Hoàng Hưng, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Trọng Tạo, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây, Thu Bồn, Bùi Minh Quốc... Rồi bắc qua thế hệ thơ trưởng thành trong hoà bình, họ lại tìm cho mình tiếng nói riêng đầy bản lĩnh và độc đáo: Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Quang Thiều, Hoàng Trần Cương, Phùng Khắc Bắc, Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn, Đoàn Thị Lam Luyến, Phạm Thị Ngọc Liên... Và gần đây, dư luận quan tâm đến các cây bút trẻ: Nguyễn Quyến, Văn Cầm Hải, Vy Thùy Linh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Phan Huyền Thư, Lê Thị Mỹ Ý... Thơ của các cây bút trẻ này có cái táo bạo, dữ dội trong thể nghiệm, luôn tìm cái mới, dù không phải lúc nào họ cũng thành công. Chúng tôi muốn kể đến trường hợp các nhà thơ lớp trước như: Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng... Những tác giả này có nhiều trăn trở về nghề, về thơ trong giai đoạn sau 1975. Những trải nghiệm và kiếm tìm của họ trong thơ được nhiều người quan tâm ca ngợi, nhưng cũng không ít người chưa thừa nhận sự đổi mới thi ca của họ, nói theo đúng nội hàm của nhóm từ này. Nhưng dù gì, những cố gắng về mỹ học thơ của họ cũng để lại cho thế hệ trẻ những bài học kinh nghiệm bổ ích.

Chúng tôi muốn lướt qua tiến trình thơ Việt như trên là để khẳng định lại một điều rằng thơ hay và nhà thơ xuất sắc thời nào cũng có. Và giá trị của thơ, của từng nhà thơ là độc đáo, không thay thế, không thể phủ định, bất luận họ thể hiện tâm trạng, hiện thực, cảm xúc gì và với một hình thức ngôn từ như thế nào. Điều đó cũng có nghĩa là, chúng tôi quan niệm thơ hay là thơ trong một hình thức nhất định, nói được tình cảm, cuộc sống trong quan hệ với cõi đời, kiếp người khiến người ta xúc động, yêu thương, vui buồn và đau khổ... Hồn thơ, tứ thơ... là quan trọng hơn cả. Hình thức nào cũng được, miễn là nó hài hoà và chuyển tải tư tưởng tốt nhất mới là cái đích của nhà thơ. Chế Lan Viên rất sâu khi viết:

            Anh đắn đo chi câu ngắn với câu dài
            Mưa Bắc lòng hay Nam lòng cũng thế
            Hoa sen tím, hoa sen hồng đều là em đấy cả
            Và buồn lau hay buồn sậy cũng buồn thôi
                                               
(Đàng nào cũng vậy)

Nghĩa là làm sao bên sau những câu thơ là tinh tuý của chữ nghĩa, của hồn thơ: “Câu hay ư? Là câu không còn chữ nữa - Lửa cháy lên rồi, chỉ còn có lửa”. Thơ hay là thơ hồn cốt, là sự thăng hoa của cảm xúc và tâm trạng, của những vui buồn, ân nghĩa quanh đời.

2. Vậy một câu hỏi đặt ra là làm sao để có thơ hay? Và làm sao để có, ngày càng nhiều, thơ hay? Dù ai có hô hào là cách tân, hiện đại, là thi pháp mới đến đâu... mà không có thơ hay thì mọi sự tuyên ngôn cũng trở thành vô nghĩa, cũng chỉ là sự bất lực trước ảo tưởng của chính mình theo phép thắng lợi tinh thần mà thôi.

Tôi muốn liên hệ đến thơ trên các tạp chí các tỉnh miền Trung mà tôi có đọc được: như Tạp chí Sông Hương, Hồng Lĩnh, Xứ Thanh, Sông Lam, Nhật Lệ Cửa Việt . Vì sao số lượng thơ đăng tải trên các tạp chí này với chỉ số lớn mà vẫn vắng thiếu thơ hay, nói đúng hơn, ít có những bài thơ neo được trong lòng độc giả rộng rãi kiểu: Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Nguyệt Cầm của Xuân Diệu, Ngậm Ngùi của Huy Cận và...

Điều này do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, mà theo tôi, chủ quan là nhiều hơn. Nhớ hồi nhóm Xuân Thu Nhã Tập hoặc Dạ Đài..., các thành viên đều nồng nhiệt tuyên ngôn và tiên phong sáng tạo, nhưng rốt cuộc, chỉ có một vài bài được người đọc biết đến, chứ không phải là hay nhất, ví như Buồn xưa của Nguyễn Xuân Sanh, Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ... Như thế, mới thấy thể loại thơ là vô cùng khó khăn và là thách thức lớn đối với người sáng tạo. Có người cả đời theo đuổi nghiệp thơ, nhưng có được mấy bài thơ hay; có người trong một khoảnh khắc xuất thần nào đó, lại để cho đời những bài thơ nổi tiếng. Nhiều người bàn đến yếu tố lóe sáng của trực giác, trực cảm; sự mách bảo của tiềm thức, vô thức... Điều này, đúng một phần, nhưng người làm thơ, nếu quả cứ chờ sự loé sáng và sự mách bảo ấy thì biết bao giờ mới có được thơ hay. Ở đây, phải thực sự khách quan, dựa vào tài năng và sự lao động nghệ thuật của nhà thơ là chủ yếu. Không ai thay nhà thơ để làm được việc này.

Thơ trên 6 tạp chí của các tỉnh Bắc miền Trung, công bằng mà nói, không sút kém so với cả nước, đặc biệt, so với trung ương. Các nhà thơ tại chỗ phải nói là hùng hậu và sáng giá, nhưng để tập hợp thơ hay của từng tạp chí làm thành một tuyển thì quả là khó. Điều này, theo tôi, có mấy nguyên nhân sau đây:

Thứ nhất, và chủ yếu, là tính địa phương của tờ tạp chí qui định. Tạp chí, bên cạnh việc phản ánh đời sống sáng tạo và học thuật có tính phát hiện phổ quát và mới mẻ, lại phải tuân thủ việc phản ánh và sáng tạo có “tính địa phương, vùng”. Do vậy, một số sản phẩm và một số tác giả chưa đạt trình độ cao cũng có thể chấp nhận mà không phải theo “chuẩn mực” như trung ương. Tính nâng đỡ, phát hiện và động viên, bồi dưỡng các cây bút trẻ mới vào nghề còn diễn ra phổ biến ở các tạp chí này.

Thứ hai là bản thân người viết cũng chưa thật tìm tòi, lao động một cách công phu, chưa chịu khó phát hiện vấn đề, suy tư, lật trở vấn đề để tìm cách thể hiện chúng tốt nhất. Bên cạnh ấy, tạp chí còn phải chịu “sức ép” từ phía các nhà thơ tên tuổi. Họ thường dành thơ hay của mình cho các tạp chí, tờ báo lớn, sang trọng cấp trung ương, hoạ hoằn lắm mới gửi cho địa phương một số bài không phải là đỉnh.

Thứ ba, phụ thuộc rất nhiều, nếu không muốn nói là quyết định để có thơ hay, lại ở chính người biên tập thơ. Người biên tập thơ có tài, nhạy cảm bao giờ cũng là bà đỡ cho mọi tài năng văn chương, cho mọi tìm tòi, đổi mới thực sự, mà có khi nhiều năm sau, sự phát hiện của người biên tập mới được thừa nhận. Ở ta, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên là một trong những người tiên cảm như thế.

Đối với các hiện tượng mới lạ, táo bạo lại phải cần có các nhà biên tập dũng cảm, bảo vệ và chịu trách nhiệm trước chữ ký biên tập của mình thì mới có được thơ hay. (nói theo nghĩa có đổi mới, lạ - mà mới lạ quá bao giờ cũng bị dị ứng của không ít độc giả quen tư duy theo nếp cũ, qui tắc cũ).

Thứ tư, là vai trò và bản lĩnh của Tổng Biên tập - người quyết định và chịu trách nhiệm cao nhất và cuối cùng của Tạp chí. Muốn vậy, Tổng biên tập phải là người dày kinh nghiệm và có tầm nhìn chiến lược, có văn hoá sâu rộng - nhất là trong lĩnh vực lý luận văn chương. Chân dung Tổng biên tập bao giờ cũng quyết định chân dung của tạp chí và thu hút sự cộng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu. Thực tiễn cho thấy, Tổng biên tập nào cấp tiến, đổi mới và có tầm tư tưởng học thuật cao thì những người cộng tác có tên tuổi, tầm cỡ sẽ tâm huyết ủng hộ ngày càng đông. Và cùng với sự cộng tác ấy là những tác phẩm có giá trị, có vấn đề, khơi động những trao đổi mang tính lý luận và sáng tạo sôi nổi, bổ ích.

Điều cuối cùng, không phải là tất cả và phổ biến, theo tôi, là ở cơ chế hoạt động và thẩm quyền cho một tạp chí địa phương. Phải thật sự tạo điều kiện cho các tạp chí hoạt động nghệ thật đích thực trong khuôn khổ của tự do báo chí và tự do sáng tạo theo đúng chủ trương và luật định, nhằm phục vụ nhân dân, phục vụ bạn đọc tốt nhất. Phải bảo đảm và khuyến khích sự tìm tòi, đổi mới và tranh luận dân chủ để tìm ra chân lý, tìm ra cái mới trong lý luận, phê bình và sáng tác, tránh những áp đặt theo thiên kiến riêng của một vài cá nhân có chức quyền. Thực tế cho thấy, không khí dân chủ và cởi mở trong hoạt động văn nghệ những thập niên qua của Đảng và Nhà nước ta đã thúc đẩy nền văn học tiến lên một tầm mới, phát hiện nhiều tài năng và đặc biệt là xuất hiện những tác phẩm có giá trị có thể sánh vai với các nền văn học thế giới với cách thể hiện mới, hiện đại. Nhưng không phải không còn một số nơi, một số trường hợp có sự thiếu tôn trọng và nặng nề đối với công tác này. Sự thiếu trao đổi, tìm ra cái đúng - vì nghệ thuật có tính đa nghĩa, hàm súc, biểu trưng, khó nắm bắt bản chất nội hàm của chúng - sẽ dấn đến sự áp đặt và mệnh lệnh, làm cho tờ tạp chí e ngại và thiếu tự tin trong hoạt động của mình (dĩ nhiên là chúng ta phải thực hiện những góp ý và yêu cầu đúng, có tác dụng định hướng sáng tạo và phát triển chất lượng của  tạp chí).

Trên đây là những suy nghĩ tản mạn của chúng tôi trong Festival thơ Huế lần này. Chúng tôi hy vọng từ diễn đàn này, chúng ta, những người tận tâm, tận lực vì văn học nghệ thuật sẽ có tiếng nói dân chủ, thực sự tâm huyết, có sự đồng điệu, tri âm của tình thi hữu vì một khát vọng chân chính, vì cái hay và cái đẹp đích thực, làm sáng giá, sáng danh cho thi ca Việt Nam trong hiện tại và lâu dài.

Huế, tháng 5-2004
H.T.H
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Tư- duy tự- do của Phan Huy Đường*)

  • TRẦN HOÀI ANHBáo Văn nghệ trong lời giới thiệu những bài thơ mới nhất của Nguyễn Khoa Điềm số ngày 5/8/2006 cho biết: “Bây giờ ông đã trở về ngôi nhà của cha mẹ ông ở Huế. Tôi chưa bao giờ đến ngôi nhà ấy”. Còn tôi, người viết bài này đã có “cơ may” ở trọ tại ngôi nhà yên bình ấy trong những năm tám mươi của thế kỉ trước khi tôi đang là sinh viên ngữ văn Đại học Sư phạm Huế.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆN(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Lan Khai (1906-2006)Đầu năm 1939, Vũ Đình Long, chủ Nhà xuất bản Tân Dân có sáng kiến xin giấy phép xuất bản ấn hành tạp chí TAO ĐÀN. Đây là tạp chí chuyên ngành về văn học đầu tiên trong làng báo ở ta trước Cách mạng tháng 8 năm 1945.

  • NGUYỄN TÀI CẨN, PHAN ANH DŨNG1/ Tiến sĩ Đào Thái Tôn vừa cho xuất bản cuốn “Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều: bản Liễu Văn Đường 1871”. Chúng tôi thành thực hoan nghênh: hoan nghênh không phải vì trong cuốn sách đó có những chỗ chúng tôi được Tiến sĩ tỏ lời tán đồng, mà ngược lại, chính là vì có rất nhiều chỗ Tiến sĩ tranh luận, bác bỏ ý kiến của chúng tôi.

  • TÔN PHƯƠNG LAN1. Phong Lê là người ham làm việc, làm việc rất cần cù. Anh là người suốt ngày dường như chỉ biết có làm việc, lấy công việc làm niềm vui cho bản thân và gia đình. Anh sống ngăn nắp, nghiêm túc trong công việc nhưng là người ăn uống giản đơn, sinh hoạt tùng tiệm.

  • THỤY KHUÊLGT: “Thụy Khuê là một nhà phê bình văn học Việt Nam sắc sảo ở Pháp” (Trần Đình Sử, Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXBGD Hà Nội, 2005) Bà đã viết về mục tác giả Bùi Giáng và một số tác giả miền Nam trước 1975 cho “Tự điển văn học” bộ mới. Bài viết về Thanh Tâm Tuyền cũng dành cho bộ Từ điển nói trên. Chúng tôi đăng bài viết này để tưởng nhớ nhà thơ Thanh Tâm Tuyền vừa mới qua đời.

  • HỒ THẾ HÀĐồng cảm và sáng tạo (*): Tập phê bình-tiểu luận văn học mới nhất của nhà phê bình nữ Lý Hoài Thu. Tập sách gồm 30 bài viết (chủ yếu là phê bình-tiểu luận và 5 bài trao đổi, phỏng vấn, trả lời phỏng vấn), tập trung vào mảng văn học hiện đại Việt Nam với sự bao quát rộng về đề tài, thể loại và những vấn đề liên quan đến phê bình, lý luận văn học, đời sống văn học từ 1991 đến nay.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHHôm Tết vừa rồi, anh Đỗ Lai Thúy ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng và có tặng tôi một tập sách. Nội dung, anh đã phác thảo chân dung học thuật của 17 nhà nghiên cứu. Công trình thật là công phu, khoa học, nhiều thao tác tư duy, nhiều tầng bậc chiêm nghiệm... hàm tàng một sở học nghiêm túc, đa diện và phong phú.

  • TRÚC THÔNGLTS: Cuộc hội thảo Thơ Huế trong mạch nguồn thơ Việt do Hội Nhà văn TT Huế tổ chức nhân dịp Festival Thơ Huế 2006 đã “truy cập” được nhiều nhà thơ, nhà lý luận- phê bình tham dự.Tiếp theo số tháng 6, trong số tháng 7 này, Sông Hương xin trích đăng thêm một số tham luận và ý kiến về cuộc hội thảo nói trên.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

  • INRASARATham luận Festival Thơ Huế lần 2 tại Huế 05 và 06/6/2006Tràn lan cái giống thơ:Cái giống thơ là sản phẩm dễ gây nhầm lẫn và ngộ nhận. Ngộ nhận nên quá nhiều người làm thơ, nhà nhà làm thơ. Rồi tập thơ được in ra hàng loạt để...tặng. Và khốn thay, không ai đọc cả! Vụ lạm phát thơ được báo động mươi năm qua là có thật. Không thể, và cũng không nên chê trách hiện tượng này. Thử tìm nguyên do.

  • TÂM VĂNĐã hơn hai thế kỷ rồi mà nay đọc bài “Lập học chiếu” (Chiếu chỉ thành lập trường học) của Ngô Thời Nhậm vẫn nóng lên như những dòng thời sự.

  • HỒ THẾ HÀVới điểm nhìn ngược chiều từ khởi đầu thế kỷ XXI (2006) hướng về cội nguồn khai sinh vùng đất Thuận Hoá - Phú Xuân - Huế (1306), chúng ta thấy vùng đất này đã có 700 lịch sử thăng trầm, vinh quang và bi tráng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.