MINH HUỆ
Trong đầm gì đẹp bằng sen...
Ảnh: tư liệu
Cái chất sen đạo lý cổ truyền thanh cao ấy đã được tái hiện vào thơ Việt Nam hiện đại viết về Bác Hồ, với những sắc thái kế thừa và phát triển thật phong phú và thú vị. Nó nói lên một sáng tạo độc đáo, đậm đà ý vị dân tộc của tiến trình văn chương tạo dựng hình tượng Hồ Chí Minh. Người có công mở đầu, cũng như công phu đeo đuổi việc vận dụng yếu tố thẩm mỹ sen khá thành công, là Bảo Định Giang:
Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
Nước Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ
Hoàng Trung Thông cũng đi vào cái môi trường "đẹp nhất" đó, để nói lên bản chất một thế giới tâm hồn vĩnh hằng cao quý, thân thuộc.
Hồ Chí Minh, tên người mãi mãi
Thơm như hương ngát hoa sen
Trong khi luận về quan hệ giữa Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam ta, Phạm Văn Đồng cũng viết "Trước hết tôi nhắc lại một câu ca dao... Câu ca dao này nói lên tình cảm của đồng bào miền Nam, đồng thời nó thể hiện tình cảm của đồng bào cả nước. Bông sen lại nhắc tới làng Sen - quê hương của Bác -, bông sen là biểu tượng của sự trong sáng, của sự cao quý, của cái “đẹp” (Bài "Sự kiện lịch sử sáng chói" - báo Sài Gòn giải phóng, ngày 2/9,/1992). Vậy nên, làng Sen - ý bao hàm cả làng Trùa, quê ngoại - "một quê chung của muôn nơi" (Xuân Hoài) đủ sống động trong thơ với tư cách là cội nguồn của "hương ngát hoa sen" như lời văn chính luận suy tư. "Sự sống này, cuộc đấu tranh này vốn có tự làng Sen", mà Chế Lan Viên đã chuyển hóa thành giọng thơ trữ tình, thiêng liêng và gần gũi:
Người gởi lại một niềm tin
Còn như Người... Người đã hóa hương sen
đến tâm huyết ân tình
Người đã lớn lên theo nhịp võng đưa
và thoi dệt cần cù
Vì ta hoa sen ấy chịu bao mưa gió
Vâng, cái sự "hóa hương sen" ấy, cái sự "hoa sen chịu bao mưa gió" ấy, đã nẩy mầm từ đất Kim Liên "cát sỏi vẫn sinh sôi hạt giống" tắm mình trong một không khí hòa quyện trìu mến, phong phú chất văn hoá dân dã, như lời Võ Văn Trực:
Một đầm sen bát ngát
Nở ngàn đóa ca dao
Đã vút thành đỉnh cao
Tiếng ru hời quê mẹ
Với chất đạo lý nhân phẩm thâm nho:
Hương thơm, phảng phất đầy xóm nhỏ
Thanh bạch trắng trong tự bao giờ
(Hoàng Xuân Khởi)
và dạt dào một sức sống truyền thống mãi mãi thanh xuân.
Hồn quê muôn dặm trăm năm ấy
Từ ''búp sen xanh" nở thắm tươi
(Văn Chi)
một ánh sáng tâm hồn rạo rực
Đồng làng đẹp bức tranh sơn mài rực rỡ
Sen tươi hồng soi đuốc giữa hồ thiêng
(Quốc Tuý)
Sen ấy thu hút một tấm lòng chiêm ngưỡng hết mực trân trọng và tinh tế
Quý mến sen trong từng cánh nhỏ
Người đến thăm không đi nặng bàn chân
(Phan Hồng Khánh)
"Không đi nặng bàn chân", như cảm nhận của Hoàng Vũ Thuật, chỉ một thoáng hương sen cũng đủ gợi trong ta tâm tưởng quyến luyến bâng khuâng, hồn hậu về giây phút gặp Bác ở làng quê:
Con ngồi ngóng bác ngoài hiên nắng
Thoảng gió đầm sen thổi cuối vườn
Giữa những tiếng thơ lắng sâu, trầm tĩnh ấy, có khi bỗng bật lên một giọng liên tưởng bất ngờ ngộ nghĩnh, thú vị trong cách biến hóa của Bùi Sỹ Hoa:
Dưới mái nhà Bác
Em cứ hát và em là nốt nhạc
Những bông Sen ngước nhìn như những nốt hòa âm
Ở đây, sen là hình ảnh lớp cháu chắt quê nhà, đang ngẩng đầu tự hào về mảnh đất quê hương của nguồn sữa dân ca đã từng nuôi dưỡng tuổi thơ của người ông, người cố vô vàn kính yêu; quê hương tỏa truyền một sinh khí hào hùng trẻ trung:
Như có hương sen tỏa lối về
Lòng ta thơm ngát đượm tình quê
Ai ai hăm hở ra tiền tuyến
Cho nhập vô đoàn xe nối xe
(Xuân Thủy)
và cũng là chốn hội tụ muôn vàn tình hữu nghị quốc tế:
Xin dâng Người bông sen hồng đầu hạ
Nơi ao làng soi bóng bạn năm châu
(Xuân Hoài)
Và trong dòng thơ "Viết từ làng Sen" thì "Sen quê Bác" của Trần Hữu Thung, dẫu khuôn vào thể thơ bảy tiếng cổ kính, và điệp đến chín lần tiếng "sen" trong hai mươi câu toàn bài, nhưng vẫn thanh thoáng một âm điệu dân gian hiện đại, như lời bình tinh tế của Bùi Nguyễn "Khung cảnh bài thơ là sự hòa hợp giữa ngôn ngữ, hình ảnh với cảm xúc, tạo nên sự thống nhất bên trong, gây cho người đọc cái dịu dàng ngọt ngào, ríu ran mát mẻ...
Bài thơ như bức tranh lụa về sen quê Bác, không có hình ảnh Bác mà cái đọng lại sâu sắc trong lòng người đọc lại là Bác Hồ".
... Có sen, ao bỗng hóa thành gương
Ríu ran đàn cháu quanh soi bóng
Hương trẻ, hương sen quyện mến thương
... Nắng hè sao lắm bâng khuâng nhớ
Bát ngát đất trời, bát ngát xuân
Giữa mùa sen nở là mùa xứ Nghệ hừng hực nắng lửa, gió nóng mà dám viết "bát ngát xuân" thì cảm hứng ấy quả là phóng khoáng, mãnh liệt một niềm tin yêu. Một niềm tin như một di sản vô giá, làm sáng dậy, nâng lên giá trị nhân văn:
Bác Hồ nghỉ yên như bức tranh sen
Nét bút Việt Nam trìu mến vẽ nên
Chiêm ngưỡng Bác Hồ tinh hoa lý tưởng
Ta thấy hồn ta càng thêm trong sáng
(Minh Huệ)
Niềm tin mà từ chiến trường miền Nam khốc liệt, Hường Triều da diết gởi gắm ra Ba Đình:
Một tờ di chúc sen tỏa ngát
Bác sẽ vào đây, Bác vẫn còn
Bác vẫn còn! Một chứng nhận của lòng dân. Một chứng nhận của lịch sử! Một thi hứng "Bỗng nghe vần thẳng vút lên cao" từ ngôi nhà sàn "lộng gió thời đại", quây quần, ríu rít:
Tin báo tiệp về ở giữa trang thơ
Da Bác đỏ hồng tóc Bác bạc phơ
Kìa, Bác đang bước xuống nhà sàn từng bước gấp
Hoa sen trắng, hoa sen hồng nở bừng theo mỗi bước
Bác đi giữa cháu con sông núi đang chờ
Rồi Bác "chia đều" sen tỏa ngát "Thơm vào bốn mươi lăm triệu hồn người hương của tự do".
Cái tứ thơ chứa chan cảm hứng lãng mạn mênh mang, bồi hồi trên đây của Chế Lan Viên cũng là nơi gặp gỡ của những tác giả khác, giữa thời điểm "Mùa Sen Lớn", hình ảnh tượng trưng của đại thắng mùa Xuân 1975, của đại khải hoàn nước Việt Nam.
Hội mừng tỏa ngát hương sen,
Thấm trong suy tưởng là tên của Người.
(Trần Văn Khoan)
của giang sơn thu về một mối huy hoàng, đúng như lời Di chúc tiên tri của Hồ Chí Minh.
Rừng hồng nở suốt nước non,
Một mùa sen đẹp tô son tên Người.
(Bùi Hạnh Cẩn)
Nguyễn Trọng Tạo còn mở rộng tứ thơ ấy hòa vào không khí chia vui của nhân dân thế giới.
Ta chào Bác giữa trái tim Tổ Quốc.
Lại trở về xóm nhỏ Bác sinh ra,
Một vầng sen chia hương khắp mọi nhà
Hương của tự do bay cùng trái đất.
Hình ảnh "Vầng Sen" quả là giàu đẹp và mới lạ (Phải chăng nó có thể gợi nhớ vầng trăng của thơ Hồ Chí Minh). Nó gợi cảm giác Sen - Bác Hồ không chỉ tỏa ngát, mà còn tỏa sáng, khiến cho mọi người bước trên con đường Hồ Chí Minh, cũng "Xòe thành triệu đóa hoa sen". Ý thơ lung linh, nhuần nhụy này của Duy Khán cũng trùng hợp với sự phát hiện sắc sảo của Chế Lan Viên "Ta thấy Người là Sen, nhưng Người cũng làm cho ta tự thấy ta có mầm - mống - sen, có khả - năng - sen". Hay như Bằng Việt đã khái quát cái chất sen nhân bản ấy trong sự nghiệp trồng người gắn với dân tộc và thời đại.
Ta là mầm sen ủ bốn nghìn năm,
Bác vun nở cùng anh em quốc tế.
Ta, là các thế hệ người Việt Nam trong tiến trình kháng chiến cứu nước và dựng nước, giữ nước hôm nay; cũng là mỗi cá thể công dân: "Hiếu trung con cháu Bác Hồ. Nguyện đưa tới đích ngọn cờ Bác trao" (Bảo Định Giang) bằng hành động dựng xây như lời thơ nguyện ước của Trần Lê Xuân.
Chúng con về xin dựng lại miền quê
Cho thêm đẹp, thêm thơm cánh sen Đồng Tháp
Cho Cửu Long tỏa chín nhánh êm đềm
Và Lê Hà, lại còn đưa cánh sen Đồng Tháp thân thương ấy vào một bức tranh tâm tưởng cảm động và hồn nhiên kỳ diệu.
Giữa nông trường Đồng Tháp bạt ngàn xanh
Kết sen trắng, chúng con reo Bác đến...
Áo Bác Hồ hòa với lúa Tháp Mười
Trên áo Bác, sen kết vòng trắng muốt.
Đẹp tuyệt! Cái đẹp của hội họa trữ tình sống động. Và có cả cái đẹp của tư duy triết lí qua một giọng thơ mới mẻ của Xuân Hoàng:
Trong hồ búp sen đã trổ...
Tháng Năm về rồi đó
Chưa qua những ngày Điện Biên
Đã đến dịp mừng sinh nhật Bác
Những cột mốc hồng chốt lại, tự thiên nhiên...
Và Bác hẳn mỉm cười vẫy gọi
''Hãy vững vàng theo qui luật mà đi"
Qui luật thiên nhiên, phải chăng cũng là qui luật ánh sáng Hồ Chí Minh, con đường Hồ Chí Minh, mà điều thú vị là chính qui luật Sen ấy cũng hấp dẫn nhiều nhà thơ nước ngoài khi họ viết về Bác Hồ. Chẳng hạn lời ca ngợi từ lâu của Buntaga, nhà thơ Mông Cổ.
Sắc đẹp hoa sen cùng với nhân dân.
Càng tươi thắm qua trăm ngàn thế hệ
Ta thấy từ sau ngày Bác đi vào "Thế giới người hiền", qua sự kiện vĩ đại giải phóng miền Nam, cho đến thời "đổi mới" hôm nay, yếu tố thẩm mĩ Sen - Bác Hồ ngày càng được nhân lên đa dạng, đa nghĩa, lắm hình, nhiều vẻ bằng những cách thể hiện phong phú, đầy tâm huyết. Mà lạ thay, có những sự trùng hợp ngẫu nhiên, mà cứ ngỡ như là theo bàn tay sắp xếp rất khéo của lịch sử. Ấy là "Mùa Sen Lớn" dân tộc bừng nở cùng thời điểm với mùa sen thiên nhiên, và nhà chiến lược thiên tài khởi xướng, tổng chỉ huy cuộc trường kỳ hành trình "Không có gì quí hơn Độc Lập, Tự Do", lại ra đời đúng lúc “Sen vừa trổ bông, cánh nhụy còn phong” tại một vùng quê, đẹp thay, cũng mang tên Kim Liên (Sen Vàng). Chính nhóm trùng hợp lịch sử, trùng hợp đời với sen đó, đã tạo thêm cho thơ một môi trường trữ tình rất thuận để khởi lên những cảm hứng dồi dào, những ý thơ đắc địa về Bác Hồ. Có cả một nguồn khai thác đến tận cùng từng chi tiết xoay quanh Sen. Thật tình tôi không khỏi ngạc nhiên một cách thú vị khi kể lại như thế này: Bông sen, hoa sen, búp sen, đóa sen, sen hồng, sen trắng, sen vàng, nhị sen, cánh sen, hương sen; đồng sen, đầm sen, ao sen, mùa sen, cho đến tranh sen, vầng sen, gió sen, mầm sen; và cả mầm - mống - sen, khả - năng - sen, sen loài người; rồi lại còn sen nở rộ, sen nở bừng, sen trổ bông, sen tỏa ngát, sen kết, sen soi đuốc, sen ngẩng nhìn, sen cột mốc hồng... Mà hầu như tất cả đều mang tính tượng trưng, tính ẩn dụ, tính biểu tượng và nhân cách hóa.
Tuy nhiên cũng có bài thơ không hề có tiếng "Sen" tiếng Bác, ấy thế nhưng qua giọng điệu, tâm huyết suy tư thế thái nhân tình gắn với danh tích Bến Nhà Rồng, với "một ngày đẹp nhất" (Ngày 19/5/1989), thì ta vẫn cảm thấy một ngọn gió đang thổi mùi hương đạo lý Sen - Cụ Hồ thấm đậm lòng ta, thậm chí có thể xốn xang gan ruột ta.
Bến xưa từng đợt sóng lành.
Một ngày đẹp nhất cho mình hôm nay.
Năm năm ta lại bến này.
Ngồi nghe sóng vỗ để suy nhân tình.
... Để xem trong cuộc phong trần.
Tâm linh có giữ được phần thanh cao?
... Để xem danh lợi trong vòng
Có còn giữ được trắng trong thuở nào?
Để xem khi bước lên lầu
Có còn nhớ thuở bên nhau mái nghèo?
Trong bài "Hương sen Tháp Mười" (Tháng 5 - 1991), Trần Thanh Đạm đã bình bài thơ "Năm năm ta lại bến này" của Bảo Định Giang, như sau "Ta thấy anh ngồi trầm tư nơi bến nước ngày xưa Bác đã ra đi, để nghe lòng tự hỏi lòng... Câu trả lời của nhà thơ hẳn nhiên là khẳng định. Mong mọi người đọc thơ anh cũng có câu trả lời như anh. Người già hay nói đạo lí, làm thơ đạo lí. Đôi khi bị người trẻ cười. Song cũng bất hạnh cho ai phải đợi đến tuổi già mới nghe, mới hiểu những điều đạo lí, khi đã quá muộn... Có những câu thơ của các nhà thơ đã giúp cho con người sống tốt cuộc đời mình, trong đó có những câu thơ của Bảo Định Giang. Thật vậy:
Tháp Mười sen nở bao mùa trước
Vẫn nở cho ai giữa Tết này
Một đóa sen đồng - lòng kính cẩn
Dâng Người - Xin gửi áng mây bay
Sen Kim Liên... Sen Tháp Mười... Sen nước Nam.
Sen của con người đẹp nhất đất nước vua Hùng, con người văn hóa nhân loại. Sen vĩnh hằng.
M.H
1990 - 1993
(TCSH55/05&6-1993)
TRẦN HOÀI ANH 1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.
LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?
PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...
PHI HÙNG(tiếp theo)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.
PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ. L.Tonstoi
TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.
PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...
NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.
NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?