FRANZ KAFKA
Ảnh: internet
Trong lịch sử văn học thế giới, Franz Kafka (1883 - 1924) là một trong những gương mặt nổi bật với một vị trí đặc biệt quan trọng. Ông sinh tại Praha, xuất thân từ một gia đình Do Thái trung lưu. Ông thông thạo tiếng Séc nhưng chỉ sáng tác văn chương bằng tiếng Đức. |
FRANZ KAFKA
Thợ săn Gracchus
Hai cậu bé ngồi trên kè bến cảng và chơi xúc xắc. Một người đàn ông đọc báo trên bậc của một đài kỉ niệm trong bóng râm của bức tượng người anh hùng đang vung kiếm. Một cô gái đổ đầy nước vào thùng. Một người bán hoa quả nằm bên cạnh những sọt hàng và nhìn ra hồ. Qua những khe cửa người ta nhìn thấy hai người đàn ông đang uống rượu giữa quán. Ông chủ quán ngồi ở đằng trước cạnh một cái bàn và thiu thiu ngủ. Một chiếc thuyền khẽ lắc lư tiến vào cảng nhỏ như thể nó được kéo đi ở trên mặt nước. Một người đàn ông mặc chiếc áo khoác bảo hộ lao động màu xanh leo lên bờ và buộc dây neo thuyền vào các vòng neo. Phía sau thủy thủ trưởng, hai người đàn ông khác mặc áo khoác tối màu có cúc bạc khiêng một cái cáng, hiển nhiên trên đó có một người nằm dưới một cái khăn lụa rộng thêu hoa viền tua.
Không ai ở trên bến cảng để ý đến những người mới lên bờ, ngay cả khi họ đặt chiếc cáng xuống để đợi người lái thuyền vẫn đang cuốn các dây thừng lại cho gọn thì cũng không ai đến gần, không ai hỏi han, không ai để mắt đến họ.
Người lái thuyền đứng lại một lát để một người phụ nữ với mái tóc buông xõa đang ôm con vào ngực bây giờ mới xuất hiện ở trên boong thuyền lên bờ trước. Sau đó anh ta cũng lên bờ, đi đến chỗ những người đang đợi mình, chỉ tay vào ngôi nhà hai tầng mầu vàng nhạt đứng sừng sững ở phía bên trái gần hồ. Hai người mặc áo khoác tối màu nâng cáng lên và khiêng nó qua cái cổng thấp, nhưng có hai cái trụ thanh mảnh. Một cậu bé mở cửa sổ, đúng lúc cậu ta trông thấy toán người đi vào trong nhà, và cậu vội đóng cửa sổ lại. Bây giờ cánh cổng được đóng cẩn thận bằng gỗ sồi đen cũng được đóng lại. Một đàn chim bồ câu đã bay vòng qua tháp chuông đậu xuống trước ngôi nhà. Khi không tìm thấy thức ăn những con chim bồ câu tụ tập lại ở trước cổng. Một con bay lên tầng hai và mổ vào kính cửa sổ. Đây là những con chim được chăm sóc tốt, lông sáng màu, nhanh nhẹn. Người phụ nữ lúc trước ở trên thuyền vung tay ném mạnh những hạt lúa mì về phía chúng, chúng nhặt lúa mì và sau đó bay về phía người phụ nữ.
Một người đàn ông đội mũ hình trụ có băng tang đi xuống một trong những đường hẻm nhỏ rất dốc dẫn xuống cảng. Ông ta thận trọng nhìn quanh, tất cả làm ông lo lắng, ông cau mặt nhìn đống rác ở góc phố. Vỏ trái cây nằm đầy trên các bậc của đài kỷ niệm, khi đi qua ông gạt chúng xuống đất bằng một cái gậy. Ông gõ cửa ngôi nhà hai tầng màu vàng nhạt, đồng thời cầm chiếc mũ bằng tay phải đi găng tay đen. Ngay lập tức cửa được mở ra, có lẽ có đến năm mươi cậu bé đứng thành hàng dài ở hành lang cúi chào ông. Người lái thuyền đi xuống cầu thang, chào người đàn ông, dẫn ông lên trên. Ở tầng hai, người đàn ông đi cùng người lái thuyền vòng qua cái sân được bao quanh bởi những hành lang ngoài được xây dựng đơn giản, thanh thoát; trong khi ở phía sau, các cậu bé chen chúc vào một phòng rộng lạnh lẽo ở đằng sau của ngôi nhà, đối diện với ngôi nhà không còn là nhà nữa mà chỉ còn nhìn thấy một bức tường đá màu xám đen trơ trọi. Hai người khiêng cáng đặt một vài ngọn nến nhỏ vào hai đầu của chiếc cáng và châm lửa, nhưng trong phòng vẫn tối, chỉ có bóng của họ lúc trước đứng yên thì bây giờ bị xiêu vẹo đi và xòe rộng lên tường. Chiếc khăn được bỏ ra khỏi chiếc cáng. Một người đàn ông có mái tóc rối bù, bộ râu rậm rạp, làn da sạm nắng, trông hao hao giống một thợ săn đang nằm ở trên cáng. Ông ta nằm bất động ở đó, hình như đang thở hổn hển với đôi mắt nhắm nghiền. Tuy nhiên, những người đưa ông ta đến đây nói rằng có thể ông ta đã chết.
Người đàn ông vừa mới vào cùng người lái thuyền bước đến gần chiếc cáng, đặt một bàn tay lên trán người đang nằm trên đó, sau đó quỳ xuống và cầu nguyện. Người lái thuyền ra hiệu cho hai người khiêng cáng rời khỏi căn phòng. Họ đi ra, đuổi các cậu bé đứng tụ tập ở bên ngoài và đóng cửa phòng lại. Nhưng ngay cả sự im lặng này cũng chưa làm thỏa mãn người đàn ông đang quỳ, ông nhìn người lái thuyền, người lái thuyền hiểu ý và đi qua một chiếc cửa ngách sang phòng bên cạnh. Ngay lập tức người đàn ông nằm trên cáng mở mắt, đau đớn mỉm cười quay mặt về phía người đàn ông đang quỳ và nói: “Ngài là ai?” Không tỏ vẻ ngạc nhiên, người đã ông đang quỳ đứng dậy và trả lời: “Tôi là thị trưởng của thành phố Riva(*).”
Người đàn ông nằm ở trên cáng gật đầu, duỗi cánh tay yếu ớt ra chỉ vào một cái ghế bành và nói sau khi ông thị trưởng đã ngồi vào ghế: “Đúng là tôi đã biết là ngài đến, ngài thị trưởng, nhưng lúc đầu quả thật tôi đã quên hết mọi thứ, đầu óc tôi quay cuồng, và tốt hơn hết là tôi hỏi ngay cả khi tôi biết. Hình như ngài cũng biết tôi là thợ săn Gracchus.”
“Đương nhiên rồi”, ông thị trưởng nói. “Đêm qua tôi đã được báo trước là ông sẽ tới đây. Khi đó, chúng tôi đã ngủ từ lâu. Khoảng nửa đêm vợ tôi gọi: “Anh Salvatore” - đó là tên tôi - “anh nhìn con chim bồ câu ở cửa sổ kìa! Đó đúng là một con chim bồ câu, nhưng to như một con gà trống. Nó bay đến tai tôi và nói: “Ngày mai thợ săn đã chết Gracchus sẽ đến, nhà ngươi hãy thay mặt thành phố tiếp đón ông ấy.””
Người thợ săn gật đầu, mím môi, thò đầu lưỡi ra và nói: “Đúng đấy, những con chim bồ câu bay tới đây trước tôi. Nhưng ngài thị trưởng có nghĩ là tôi nên ở lại Riva không?”
“Điều đó tôi chưa thể nói được”, ông thị trưởng trả lời. “Ông chết rồi à?”
“Vâng”, người thợ săn nói, “như ngài thấy đấy. Trước đây nhiều năm, ồ không, trước đây rất nhiều năm, tôi bị ngã từ một mỏm đá trong Rừng Đen(**) ở Đức khi tôi đuổi theo một con linh dương. Tôi chết từ đó.”
“Nhưng ông cũng đang sống đấy thôi”, ông thị trường nói.
“Gần như là tôi cũng đang sống”, người thợ săn nói. “Con thuyền chở tôi sang thế giới bên kia đã lỡ chuyến đi. Một sự quay sai của bánh lái, một thoáng không lơ là của người cầm lái hay một sự làm chệch hướng đi của con thuyền qua quê hương tươi đẹp của tôi, tôi cũng không biết đó là do điều gì nữa. Tôi chỉ biết rằng tôi đã hoàn toàn tỉnh táo và rằng từ đó con thuyền của tôi đã ở trên những vùng nước của cõi trần. Vì vậy tôi, người đã chỉ muốn sống ở trên núi, đang đi qua tất cả các nước trên thế giới.”
“Và ông không thuộc về thế giới bên kia?” ông thị trưởng nhăn trán hỏi.
Người thợ săn trả lời: “Tôi luôn luôn ở trên cầu thang khổng lồ dẫn lên trên. Tôi đi vẩn vơ ở trên chiếc cầu thang trống trải rộng mênh mông này, lúc thì ở trên, lúc thì ở dưới, lúc thì ở bên phải, lúc thì ở bên trái, cứ đi mãi, đi mãi. Từ người thợ săn đã biến thành một con bướm. Ngài đừng cười.”
“Tôi có cười đâu”, ông thị trưởng phản đối.
“Rất dễ hiểu”, người thợ săn nói. “Tôi cứ đi mãi, đi mãi. Nhưng khi tôi leo lên nơi cao nhất và cánh cổng ở phía trên đã chiếu sáng cho tôi thì tôi tỉnh dậy trên con thuyền cũ của tôi đang đơn độc ở một vùng nước nào đó của cõi trần. Nằm trong khoang thuyền, tôi cố lí giải sai lầm chủ yếu dẫn đến cái chết ngày xưa của tôi. Julia, vợ của anh lái thuyền, gõ cửa và mang xuống thuyền cho tôi đồ uống buổi sáng của đất nước mà chúng tôi đang đi thuyền dọc bờ biển của nó. Tôi nằm trên một tấm phản gỗ, mặc một cái áo liệm bẩn thỉu, tóc râu nửa đen nửa bạc, rối bù, trông tôi thật thảm hại; hai chân tôi được phủ bằng một chiếc khăn choàng rộng của phụ nữ bằng lụa, thêu hoa, được viền tua dài. Phía trên đầu và phía dưới chân tôi, mỗi đầu có một ngọn nến thờ soi sáng. Ở trên tường đối diện với phía tôi nằm có một bức tranh nhỏ, người trong tranh chắc là một thổ dân Tây Nam Phi đang chĩa ngọn giáo về phía tôi và được che chắn một cách tối đa đằng sau một cái khiên to tướng được tô vẽ lòe loẹt. Người ta thấy ở trên các thuyền có nhiều bức tranh ngu ngốc, nhưng bức tranh này là một trong những bức ngu ngốc nhất. Thông thường khoang thuyền của tôi hoàn toàn trống không. Không khí ấm của đêm phương Nam ùa vào qua một cửa khoang của mạn thuyền và tôi nghe thấy nước vỗ ì oạp vào con thuyền.
Tôi nằm ở trong khoang thuyền từ thuở ấy, sau khi tôi còn là thợ săn Gracchus đang sống đuổi theo một con linh dương trong Rừng Đen ở quê nhà và bị ngã. Mọi thứ cứ tuần tự diễn ra. Tôi đuổi theo con thú, bị ngã, bị chảy máu trong một khe núi, bị chết và con thuyền này đã phải đưa tôi sang thế giới bên kia. Tôi vẫn còn nhớ mình thích thú ra sao khi lần đầu tiên nằm dài ra ở trên tấm phản này. Những ngọn núi chưa bao giờ nghe thấy tiếng hát vui nhộn của tôi như bốn bức tường gỗ của khoang thuyền thuở ấy đã nghe trong ánh sáng lờ mờ.
Tôi đã thích sống và cũng đã thích chết. Trước khi lên thuyền tôi may mắn vứt cái bao đựng hộp sắt, túi xách, súng săn mà tôi đã luôn tự hào khoác trên người xuống trước mặt mình. Và tôi chui vào chiếc áo liệm như một cô gái chui vào chiếc váy cưới. Tôi nằm trên cáng và chờ đợi. Sau đó điều không may đã xảy ra.”
“Đúng là một số phận kém may mắn”, ông thị trưởng phẩy tay nói.
“Và ông không có lỗi gì trong chuyện này chứ?” “Không”, người thợ săn nói, “tôi đã là một thợ săn, chẳng lẽ đó là một tội lỗi ư? Tôi là người thợ săn hòa nhã trong Rừng Đen, nơi thuở ấy còn có chó sói. Tôi rình nấp, ngắm bắn…, đó là tội lỗi ư?... Tôi được mệnh danh là “người thợ săn cừ khôi của Rừng Đen”. Đó cũng là một tội lỗi ư?”
“Tôi không có quyền phán xét”, ông thị trưởng nói, “tuy nhiên, tôi cũng cho là trong việc này ông không có lỗi. Nhưng ai có lỗi kia chứ?”
“Tay thủy thủ trưởng”, người thợ săn nói. “Sẽ không có ai đọc những gì tôi viết ở đây, sẽ không có ai đến giúp tôi; giả thử rằng việc giúp tôi là nhiệm vụ thì cửa của tất cả các ngôi nhà sẽ đóng im, tất cả mọi người sẽ nằm trên giường kéo chăn chùm kín đầu, cả thế giới sẽ là một chỗ nghỉ đêm khi tôi yêu cầu được giúp đỡ. Điều đó rất có lợi, vì không ai biết đến tôi, và nếu không có ai đó biết đến tôi thì cũng không có ai biết tôi đang dừng lại, và nếu không có ai biết tôi đang dừng lại thì cũng không có ai biết giữ tôi lại ở đó, cho nên không có ai biết giúp tôi như thế nào. Cái ý nghĩ muốn giúp đỡ tôi là một chứng bệnh và cần được điều trị ở trên giường.
Tôi biết điều đó và vì vậy tôi không hét lên để gọi người giúp đỡ, ngay cả khi tôi rất muốn được giúp đỡ trong giây lát. Tôi rất dễ mất tự chủ, ví dụ như bây giờ. Nhưng chắc chắn điều này là cần thiết để giãi bày những ý nghĩ vừa rồi, nếu tôi nhìn quanh và hình dung mình đang ở đâu và đang sống từ hàng thế kỉ nay. Tôi quả quyết là như vậy.”
“Thật không thể tin được”, ông thị trưởng thốt lên, “không thể tin được. - Và bây giờ ông có ý định ở lại thành phố Riva của chúng tôi chứ?”
“Đúng thế”, người thợ săn mỉm cười nói và đặt bàn tay lên đầu gối của ông thị trưởng để gây thiện cảm. “Tôi đang ở đây, tôi không biết và không thể làm gì được nữa. Thuyền của tôi không có bánh lái, nó chạy bằng sức gió thổi ở những nơi tận cùng của cõi chết.”
Phạm Đức Hùng
dịch từ nguyên bản tiếng Đức
(TCSH363/05-2019)
..............................................
(*) Còn gọi là thành phố Riva del Garda, nằm bên hồ Garda, Italia.
(**) Rừng Đen (tiếng Đức: Schwarzwald) là một dãy núi có nhiều cây ở Baden-Wuerttemberg, phía Tây Nam Đức.
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.
LGT: Irving Stone (1903-1989), nhà văn Mỹ hiện đại, nổi tiếng trong nước và trên thế giới nhờ những kịch bản phim lịch sử, những tác phẩm về tiểu sử các nhân vật nổi tiếng, nhất là những cuốn “Khát vọng cuộc sống” (Lust for Life) viết năm 1934, về Vincent van Gogh, danh hoạ Hà Lan, “Tê tái và Đê mê” (The Agony and the Ecstasy) viết năm 1961, về Michelangelo, danh hoạ và nghệ sĩ điêu khắc Italy, “Thuỷ thủ trên lưng ngựa” (Sailor on Horseback) về Jack London, nhà văn Mỹ lừng danh...).