Thơ là phương tiện đồng hoá con người với sự sống

14:53 26/08/2009
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

Nhà thơ Thạch Quỳ - Ảnh: nhathonguyentrongtao.wordpress.com

Các nhà thơ chúng ta cần liên hiệp lại, cần lên tiếng báo động thơ cấp bách như tổ chức hoà bình xanh lên tiếng báo động về môi trường vậy. Môi trường thơ suy thoái cũng chính là cái lõi của môi trường sống suy thoái. Môi trường thơ hiện tại cũng đã là vấn đề toàn cầu như môi trường sống vậy. Các nhà thơ chúng ta không thể hình dung nổi một sự sống không thơ, một sự sống điều hành Rô-bốt mà chính mình cũng thành Rô-bốt! Không phải riêng tôi nói to lên, phóng đại lên một nỗi lo hão huyền mà chừng như tất cả các nhà thơ đều ít nhiều có mang trong mình nỗi lo âu phấp phỏng đó. Các nhà thơ rất nhạy cảm trước các lý do mà thực tế cuộc sống buộc thơ phải đối diện. Thơ là con đẻ của sự tĩnh lặng đồng thời là thiên sứ trở về nhập hồn trong sự tĩnh lặng đó. Tiếc thay, cuộc sống hiện đại không nhiều khoảng trống cho sự tĩnh lặng đó. Chừng như cái khoảng lặng trong đêm ngón tay “cảo thơm lần giở trước đèn” đã đi qua chúng ta như một hoài niệm để nhường chỗ cho thế giới nghe nhìn cuống cuồng, nhấp nhoáng và nhộn nhịp trên ti vi, trên các màn hình vi tính. Các sản phẩm “mì ăn liền” đang khuyến dũ con người vào thế giới tinh thần về sự “ăn liền” rất nhạy cảm của các phản ứng. Những câu thơ ngân nga ở tầng sâu, ở nơi giáp ranh của thế giới hư thực, mộng mơ và huyền ảo đang dần dà bị chối bỏ. Văn hoá đại chúng thích hợp cho các sáng tạo thị trường. Thơ không thể chỉ căn cứ vào sự nghiên cứu thị trường, thị hiếu mà sáng tạo. Bởi làm thế là tự thơ đã mâu thuẫn với bản chất của nó để tự đánh mất nó. Thơ có thị trường, thị hiếu nhưng đó là thị trường, thị hiếu có chọn lọc. Nếu người có cấp người, cấp văn hoá của người thì thơ có cấp thơ, cấp văn hoá của thơ. Thơ không đồng cấp quân bình với các văn hoá người mà nó ở cấp độ văn hoá cao nhất, siêu việt nhất mà chúng ta có thể hình dung được. Người xưa nói đến hai từ “Cõi thơ” - Cõi thơ ngang cõi niết bàn người ơi! Không phải chúng ta thổi phồng để cao siêu hoá thơ nhưng thật khó hình dung về sự tầm thường hoá nào đó đối với nó.

Trong khi chúng ta muốn thơ đại chúng hoá để có thị trường kinh tế giúp thơ tồn tại thì cái mâu thuẫn thơ càng thơ thị trường thơ càng hẹp là không thể cưỡng lại. Cái lối sống “tử vì đạo” có vẻ đã xa xưa và lỗi thời lắm rồi lại buộc các nhà thơ chúng ta vào cuộc thể nghiệm mới: Các nhà thơ tiếp tục “uống nước lã” để làm thơ. Ở thời kinh tế thị trường tồn tại một thứ lao động rất kỳ quái là sản phẩm của thứ lao động ấy chỉ làm ra để cho không, để biếu tặng. Có thứ lao động nào kỳ quái hơn lao động của các nhà thơ? Vinh quang ở đấy và bi kịch cũng là ở đấy. Song, đấy cũng là một lý do để người yêu thơ phấp phỏng nỗi lo về sự tồn tại của thơ trong tương lai? Ở đây sẽ xuất hiện một quy luật mới: Không phải còn nhà thơ thì còn bạn đọc mà ngược lại, còn bạn đọc sẽ còn nhà thơ, Muốn “cứu” thơ (nếu có thể nói như vậy) thì trước hết phải “cứu” lấy khả năng cảm thụ thơ, tình yêu thơ, cái tâm thơ và cái chỉ hướng thơ ở trong bạn đọc. Nếu thơ của ngày hôm nay không níu giữ được tình yêu thơ còn sót lại trong bạn đọc thì khó có hy vọng về sự mê thơ, say thơ của bạn đọc ở các thế hệ nối tiếp. Có một dấu hiệu báo động chưa chính xác lắm nhưng đã vang lên trong các truờng học là học sinh các cấp phổ thông đang chán văn, chán thơ, chán cái môn học nặng nề đầy lo âu trước các câu đố hóc hiểm không mấy dính dáng đến bản chất văn chương của các cuộc thi cử. Làm cho thế hệ tương lai chán văn thơ không phải là lỗi riêng của ngành giáo dục nhưng ngành giáo dục có trách nhiệm “Ông chủ” trong việc tháo gỡ vấn đề. Các nhà thơ đã lên tiếng, cần lên tiếng, coi việc chán văn thơ của học sinh là nỗi lo lắng nghiêm trang không chỉ của văn học mà của tâm hồn các thế hệ trẻ.

Thơ không bán được. Một tập thơ hay không bán nổi 1000 cuốn, thậm chí không bán được 500 cuốn.Tôi nói thơ hay là không nói chủ quan. Nhà xuất bản Kim Đồng đã tuyển chọn khắt khe các bài thơ hay nhất của các tác giả lừng danh nhất, nổi tiếng nhất của nước ta mà thơ cũng không bán hết. Bán để chịu lỗ, bán với giá tiền rẻ hơn một bao thuốc vi-na một tập thơ. Nhìn tên tuổi các tác giả, nhìn giá tiền, nhìn sự ế sách cũng thật đau lòng: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Cao Bá Quát, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính...

Rõ ràng là người ta không mua thơ không phải do không có tiền, bởi giá tập thơ chỉ 5 ngàn bạc, cũng không phải do thơ không hay bởi thơ đấy đã là tinh hoa của nền thơ dân tộc.Dấu hỏi “vì sao?” ở đây còn to hơn chiếc mỏ neo tàu thuỷ. Ai có thể trả lời câu hỏi đó? Sự ế thơ đồng nghĩa với sự ế ẩm của các tâm hồn. Phải chăng khái niệm “tâm hồn” chỉ là một huyền du xa xỉ của thời quá khứ? Phải chăng thơ đang lạc loài và các nhà thơ đang lạc loài không chỗ đứng ở ngày hôm nay? Tôi cũng biết rằng người yêu thơ ở nước ta đang rất đông đảo, đang rất nhộn nhịp ở các câu lạc bộ phường, khối, xóm, xã... Ngày thơ Việt Nam người về tham dự vẫn đông như hội. Lại thêm nữa, hàng năm có hàng trăm hàng ngàn tập thơ được in ra. Trước những dấu hiệu nhiều người đánh giá là “rất đáng vui mừng” ấy, lẽ nào tôi còn dám “khó tính” để giữ nguyên một tâm trạng khác? Tôi không muốn thơ bị tán loạn, bị xuống cấp trong các nhận thức giản đơn bỗ bã theo chiều hướng tầm thường hoá, đại chúng hoá của số đông. Chúng ta cần bảo toàn thơ bằng chất lượng chứ không thể bảo toàn nó bằng số lượng. Không thể nhìn vào số lượng tác phẩm để đánh giá một nền thơ cũng như không thể nhìn vào số đông nhộn nhịp để đánh giá trình độ hiểu thơ, biết thơ của một dân tộc.

Trên đây là những phấp phỏng như cơn gió mang bụi bặm đường phố tạt qua tâm hồn tôi, ít nhiều gây ra ở đó những lo lắng mơ hồ có thể có lý do và không lý do. Nhưng trong suy nghĩ, trong nhận thức của tôi thì thơ bao giờ cũng là đại diện đáng tin cậy nhất ở vế thứ 2 trong câu nói của Gớt: Chính thơ là “cây đời mãi mãi xanh tươi”.

Khi toán học chạm trán với định lý bất toàn, triết học chạm trán với hố đen là lỗ thủng, khoa học đã tự nhận thức về giới hạn thì thơ mãi mãi vẫn là “Triết học hồn nhiên của sự sống”. Bản thân thơ không gặp vấn đề nan giải như các thể loại khác. Nó gặp khó khăn ở đối tượng nhận thức chứ không gặp khó khăn trong bản chất tư duy triết luận thể loại. Một mầm cây mọc lên, một quả trứng nứt vỏ thơ đồng hành với sự sống, không phải là phương tiện ngợi ca mà chính là bộ phận hữu cơ của sự sống đó. Sự sống tồn tại bằng thơ và thơ tồn tại bằng sự sống. Thơ không triết luận sự sống mà mọc lên cùng sự sống đó. Nói cách khác, khi mắt người nhìn một mầm cây thì nhìn thơ mọc lên ở mầm cây đó. Mắt anh ta chạm phải thơ cùng lúc chạm phải mầm cây. Anh ta không nói được bằng thơ nhưng thơ tràn ngập tâm hồn anh ta. Muốn hay không thì thơ vẫn là phương tiện để đồng hoá con người với sự sống. Thơ vô hình vô ảnh ràng buộc con người trong cái quan hệ thiên, địa, nhân phi ngôn ngữ. Chúng ta cần nhận thức về cái vùng thơ phi ngôn ngữ như nhận thức ý nghĩa của từ ngữ trong dạng phi ngữ nghĩa của của mệnh đề. Cần biết cái độc lập tương đối giữa thơ và các phương tiện thơ cần sử dụng để biểu hiện chính nó. Sai số giữa thơ và ngôn ngữ thơ là điều có thật. Làm cho sai số đó hẹp lại, triệt tiêu đi là tài năng của các nhà thơ. Người thơ không phải là nghề lắp ráp xác chữ, xác hình mà là cái nghề có phép thần để làm cho hồn chữ, hồn hình hoà đồng với xác mà dựng lên sự sống.

Triết học của sự sống chính là bản thân sự sống. Đó là triết học thơ. Sự sống bí ẩn thế nào, kỳ diệu thế nào thì thơ bí ẩn thế ấy, kỳ diệu thế ấy. Không có thế giới trơ hoẻn của cái đã nhận thức, đã dứt điểm cũng như không có thế giới tận cùng nơi thơ đã ngự trị bằng vẻ đẹp của nó. Thế giới mở chính là thế giới bí ẩn. Khám phá bí ẩn là nhiệm vụ của sáng tạo. Bản thân thơ cũng là một bí ẩn cần khám phá. Thái độ không đầu hàng trước các bí ẩn là bản chất hùng vĩ nhất của thái độ sống. Cái đó không riêng của khoa học. Cái đó cũng gọi là thơ. Còn cuộc sống thì còn khoa học và còn thơ. Nhưng thơ không khám phá thế giới để khuôn bó nó vào các quy tắc, quy luật của sự vận động mà chỉ chiêm nghiệm vẻ đẹp sinh thành của nó gắn kết sự kỳ lạ của thế giới trong tình yêu cuộc sống đến mức mê say và cảm động do thơ tạo ra. Thơ không tạo ra thế giới thực, cũng không tạo ra thế giới hoàn toàn ảo. Thơ tạo ra thế giới mang vẻ đẹp hướng tới của khát vọng sống. Có thể nói khát vọng còn thì thơ còn, sự sống còn thì thơ tồn tại. Nói thế, tôi tin rằng không phải là ngoa ngôn hoặc nhầm lẫn. Câu hỏi thơ tồn tại hay không tồn tại “chỉ nên đáng để ý ở chỗ vì sao ở thời đại chúng ta lại nẩy sinh ra câu hỏi đó. Và đó là một câu hỏi khác. Câu hỏi này rất nghiêm trang, nó là một báo động thơ, báo động về nền văn minh, về sự ô nhiễm môi trường văn hoá trong đời sống tinh thần của cả loài người. Thơ không thể mất nhưng nhân loại có đồng hành với cuộc sống trong cảm giác thiêng liêng và kỳ diệu của thơ hay không lại là chuyện khác.

Vinh 5/2004
T.Q
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.