Thơ Huế lẽ nào không Huế

14:32 11/12/2008
PHẠM XUÂN NGUYÊNTrước hết tôi muốn phân định một khái niệm thơ Huế, ít nhất là trong bài viết này của tôi. Thơ Huế là một khái niệm tưởng cụ thể nhưng lại khá mơ hồ. Thế nào là thơ Huế? Có phải đó là thơ viết về Huế và thơ của người Huế viết. Mặc nhiên mọi người đều hiểu thế. Thơ viết về Huế thì có của người gốc Huế, người đang sống ở Huế và người ở khắp mọi nơi.

Thơ của người Huế viết thì không chỉ viết riêng về Huế mà viết đủ mọi đề tài, nhưng người Huế đây lại là người nào: người gốc Huế dù đang sống ở Huế hay đã xa Huế, người nơi khác nhưng đã sống hay đang sống ở Huế. Có lẽ là cả hai. Phân định thế này nghe có vẻ phân biệt quê hương bản quán, nhưng một tiêu chí rõ ràng lại là cần thiết khi làm một tuyển tập mang tên Thơ Huế để tránh hai cực: hoặc rộng quá thành vơ vào, hoặc hẹp quá thành đẩy ra. Khéo mà ở đây phải dùng thuyết tương đối của Albert Einstein, có rộng và hẹp. Thơ Huế rộng là thơ viết về Huế. Thơ Huế hẹp là thơ của người Huế viết. Mà như thế là vinh danh cho Huế, một vùng, một xứ thuộc số ít địa danh trên toàn cõi Việt rất nên thơ và có rất nhiều thơ. Trong bài này, tôi dùng “thơ Huế” với nghĩa là thơ viết về Huế, tức là thơ Huế rộng.

Huế đẹp và thơ! Thiên nhiên và lịch sử đã cho Huế một vị thế, một ý nghĩa để trở thành nguồn cảm xúc dồi dào cho nhiều thế hệ thi nhân. “Vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được / Nét dịu dàng pha lẫn trầm tư” (Nguyễn Thị Thanh Bình). Tất cả, có lẽ thế, thơ về Huế đều đã bị đóng khuôn, bị điều kiện hóa trong nội dung mà hai câu thơ trên đây diễn đạt. Thơ Huế đa cảm và đa tình. Thi liệu như đã thành cổ điển: sông Hương núi Ngự, lăng tẩm đền đài, nón trắng áo tím, ai bình. Có thể tuyển được những tập thơ về từng đặc điểm riêng của Huế, như thơ về lăng tẩm, thơ về sông Hương, thơ về mưa Huế, thơ về gái Huế. Thi cảm như đã thành khuôn: mộng mơ và buồn bã. Thi tứ như đã thành nếp: hoài niệm và trầm tư. Ai bước chân đến Huế cũng là mang tâm trạng Nguyễn Bính “Hôm nay có một người du khách, Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên”. Bề dày và bề sâu lịch sử, văn hóa, tình cảm của một vùng đất cố đô đã tạo nên Huế thơ và khơi dòng thơ Huế rất định hình riêng biệt.

Bài thơ dưới đây của Huy Tập, một người quê gốc Nam Hà nhưng từng sống và làm việc ở Huế tôi dẫn ra như một thí dụ xem xét dưới góc độ thơ Huế bị quy định và ràng buộc thế nào bởi địa lý phong thủy tâm tình của một vùng đất.
Nếu như chẳng có sông Hương
Gửi tình cho Huế gửi thương nơi nào
Nếu như nước chẳng ngọt ngào
Áo em sao lại tím màu thủy chung
Nếu như chẳng có dòng sông
Câu thơ ai chở xuôi dòng Huế thơ
Nếu như nước chảy ngẩn ngơ
Câu thơ áo tím anh chờ Huế ơi
Ai qua Huế một lần thôi
Mang đi từ Huế ngọt lời nhớ thương
Nếu như chẳng có dòng Hương
Câu thơ xứ Huế giữa đường đánh rơi
Thương màu tím Huế đầy vơi
Sông Hương xanh suốt những lời cho nhau
Nghĩa là, thơ Huế lẽ nào không Huế! Dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi. “Huế đẹp tưởng chừng không có thực” (Ngô Thế Oanh). Và thơ Huế chuyên chở cái “tưởng chừng” đó trong dạt dào cảm xúc lãng mạn u buồn sâu lắng nhẹ nhàng. Trong nhiều bài thơ về Huế có khá nhiều bài hay theo mạch cảm xúc này. Ngay hai câu thơ Thu Bồn phát hiện cái lững lờ của dòng Hương khiến đọc lên giật mình ngỡ ngàng “Con sông dùng dằng con sông không chảy / Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” rất hay, nhưng vẫn là trong mạch chảy của một điệu cảm.

Nhưng, thơ Huế lẽ nào không Huế.
Tôi nhớ có lần đã ngạc nhiên thích thú khi nghe ca sĩ đại ngàn Ymoan hát bài hát “Thành phố hoa phượng đỏ” theo kiểu rock. Bài hát vang lên trong một giai điệu tiết tấu khác lạ như nó vốn từng quen nghe đã cho tôi những khám phá, phát hiện mới, dẫu ca từ vẫn đã thuộc lòng. Gần đây, việc ca sĩ Thanh Lam “làm mới” những ca khúc Trịnh Công Sơn có gây những dư luận phản ứng khác nhau, nhiều phần là chê, nặng lời hơn thì bảo là phá nhạc Trịnh. Tôi thì nghĩ khác: ai cấm những thử nghiệm hát nhạc Trịnh khác cách lâu nay từng hát? Nói cách khác, ai quy định nhạc Trịnh là chỉ được hát theo một kiểu tạm gọi là à la Khánh Ly? Nghe Lam hát Trịnh tôi tưởng như thấy dòng Hương hiền hòa thoắt hóa “sông dài như một lưỡi gươm giữa trời” (“Trường giang như kiếm lập thanh thiên”) trong mắt nhìn của ngông sĩ họ Cao. Huế như nhạc Trịnh vậy, lâu nay bị “bắt chết” ở một góc nhìn, góc cảm. Thơ Huế, thơ về Huế, cần có những Chu Thần, những Thanh Lam để lạ hóa, để làm mới cách cảm, cách nhìn của một vùng đất, một vùng thơ.

Huế có sông An Cựu nắng đục mưa trong. Cái nghịch lý, ngược đời đó cũng là một nét tính cách Huế. Huế như là thống nhất của mâu thuẫn. Hay nói như nhà văn Túy Hồng một thời: “Huế của tôi không bao giờ khóc người đi và cũng chẳng bao giờ mừng người trở lại. Huế của tôi không yêu ai mà cũng chẳng phản bội ai. Huế thừa lẽ sống nhưng thiếu kẻ sống”. Dòng Hương Giang là dòng thơ làm bao thi nhân mộng mơ với điệu slow dịu êm của nó. Nguyễn Bính liên tưởng chuyện cung nữ mới thấy “Hai bờ hai cánh tay vua / Cung nga úp mặt làm thơ thất tình”. Dòng Hương thất tình này mãi đến Lê Thị Mây mới thấy lại khi nhà thơ nhìn đám mây trôi trên sông không phải chiếc áo, không phải tấm khăn quàng, mà là “mái tóc của cô gái trẫm mình”. Một nhớ chuyện xưa, một nói chuyện nay. Và dòng Hương của thi ca nhạc họa xứ Huế đã chảy theo một mạch khác. Mạch cảm xúc này tạo nên cái “không Huế”, phá bỏ cái lững lờ quen mòn áp cho sông, cho thơ lâu nay.
Hãy đọc bài thơ này của Phan Huyền Thư:

HUẾ

Đêm trườn dần vào sông Hương
tiếng hò vỡ dưới gầm Trườâng Tiền

Khúc Ai những cung phi goá bụa
chèo thuyền vớt xác mình trên sông

Nhất dạ quân vương đất thần kinh
người đi đi, làm thơ cho Huế tím
 
Tự phá vỡ đối xứng
bằng nón nghiêng
quang gánh lệch
                                    mắt nhìn ngang
Huế như nàng tiên câm
khóc thầm không nói.

Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽ
lại sợ chạm vào nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt .

Đây là một Huế khác trong một cách nhìn, cách cảm khác của thơ. Bài thơ như một cuốn phim quay các góc độ Huế và rồi ống kính chiếu tập trung vào chỗ thắt, điểm lõm mà Huế được đặt vào trên dải đất hình chữ S. Huế trong bài thơ này là “nơi nhạy cảm trên cơ thể Việt ”. Và thế là Huế đã được “lạ hóa”, Huế đã được đánh thức, Huế đã thành không Huế. Phải thế chăng mà bài thơ hay này cũng đã bị thành nhạy cảm khiến nó không được duyệt cho vào tập thơ đầu của tác giả (tập Nằm nghiêng), phải chờ thêm thời gian mới được đưa vào tập thơ sau (tập Rỗng ngực)? Chưa ai, tôi có nhầm chăng, nhìn Huế thành ra một bộ phận thân thể, mà lại là bộ phận nhạy cảm, như nữ thi sĩ này. Giống như dải đất Việt Nam hình chữ S, trong mắt thi sĩ chiến trận Trần Mạnh Hảo là “đất nước hình tia chớp”, trong mắt thi sĩ tình yêu Vi Thùy Linh là “dáng hình người đàn bà khuỵu chân ngửa mặt”, và trong mắt một thi sĩ khác là con đỉa bị cắt ngang bởi con sông vĩ tuyến thành hai nửa ngo nghoe tìm cách dính lại với nhau.

Vậy là ở đây có chuyện cách nhìn, cách cảm. Chuyện phải vượt thoát khỏi những khuôn mòn sáo cũ, những cliché, mà thơ dễ vướng vào do áp lực của truyền thống văn hóa, của đặc điểm một vùng đất. Trung niên thi sĩ Bùi Giáng đã khái quát cái bất biến của cố đô miền Trung: “Dạ thưa xứ Huế bây giờ/ Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”. Chỉ có người thơ bằng cảm xúc và cái nhìn tươi mới của mình giúp Huế và người yêu Huế phát hiện ra những vẻ đẹp khác lạ đằng sau những cảnh vật di tích đã quen thuộc và mòn trơ. Vâng, đất đá tre gỗ là những thứ trơ. Lâu đài thành quách lăng tẩm là những vật trơ. Nhưng “những lăng tẩm như hoàng hôn níu lại đời quên lãng” (Thu Bồn) thì cái tham vọng của bậc đế vương đã hóa sự ngẫm ngợi phù du kiếp người. Vỹ Dạ thôn, ai cũng biết, trở thành một tâm tưởng cho người đến Huế là nhờ lời thơ của Hàn Mặc Tử. “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đến bây giờ vẫn là một nghi vấn, một lạ lùng, một khó hiểu, và một thơ, của Huế.
Thơ Huế lẽ nào không Huế?
Không Huế, như Tiếng chuông Thiên Mụ ngân day dứt, khắc khoải, tan hoang trong từng câu thơ Nhã Ca, một người con gái Huế. Trong thơ về Huế tôi ít thấy bài viết về chùa Thiên Mụ, mà viết như Nhã Ca thế này tôi lại thấy càng ít. Huế, với Nhã Ca, đã là một niềm nhớ, niềm đau.
Không Huế, như Cao Thoại Châu “trong khai sinh anh người hà nội” nhưng “theo em về huế” (1969) “bởi thương em nên phải về xứ nóng / xứ mưa dầm và cung cách trang nghiêm”, và:
bởi thương em nên phải vào thành nội
ngồi trên chỗ vua ngồi ngày xưa
đó là phút giây thành ngài ngự
và ngài ngự thân cô thế cô
trong một cõi cô đơn rất rộng
và ngài ngự đang giấu nỗi buồn
trong một chốn tù riêng của huế
ngài ngự muốn tập quen đứng đắn
tập sống bình thường cho bớt đau thương
Vẫn nói chuyện “làm vua” trong thành nội, nhưng mấy câu thơ sau đây của Cao Thoại Châu tôi muốn tách riêng ra như để nói riêng cho người làm thơ về Huế:
ngồi trên ngai vàng anh bắt đầu tập nói
những tiếng ni tiếng nớ lạ đời
như trẻ thơ đang ngồi trong nôi
tập nghe ngóng và gọi tên sự vật

Đập vỡ cái mặc định về Huế để tìm ra một Huế mới của hôm nay chứ không phải hôm qua, đó là trách nhiệm của thơ Huế hiểu theo nghĩa khái quát và bao trùm.
Thơ Huế lẽ nào không Huế, ở đây có một chấm than và một chấm hỏi.
Chấm than: Thơ Huế lẽ nào không mang nét Huế! - chuyện đó hiển nhiên.
Chấm hỏi: Thơ Huế lẽ nào không viết khác được về Huế khi Huế đã thành một đề tài yêu mến của nhiều thi nhân nước Việt có tài? Huế thơ vẫn còn đang chờ được đánh thức ở những bề sâu khác lạ của mình, giống như Huế di sản vật thể đang cố làm sống lại mình trong những phương diện khác lạ qua mỗi kỳ festival.
Hà Nội cuối tháng 5/2006
Huế đầu tháng 6/2006
     P.X.N

(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H