Thơ Hế - một vài cảm nhận

16:09 05/12/2008
VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

Nhà thơ Nguyễn Khắc Thạch và nhà thơ Hồ Thế Hà trong Ban tổ chức bảo tôi là: Ông là nhà thơ người Huế, muốn về dự cuộc này thì phải có tham luận, không thì... đừng về. Mà được về Huế thăm quê thăm mẹ, và nhất là về giữa cái ngày vui và đầy ý nghĩa như thế này là mong ước thường trực của tôi, nên tôi phải ngồi cặm cụi viết, vừa viết vừa run, vì tôi biết mình đang nói trước những người vô cùng am hiểu về thơ, về Huế. Thôi thì “Một liều năm bảy cũng liều/ dầu sao tôi cũng quá yêu quê mình/ cho nên lỡ nói linh tinh/ cũng xin quý vị lượng tình cho qua...”.

Nói đến Huế, cảm nhận đầu tiên của những người đã từng đến Huế hay chưa đều bật lên là: Xứ thơ. Thơ gắn với Huế như một phần đời sống, một thành tố làm nên Huế. Cái câu đùa tếu táo: Huế thơ Huế mộng Huế tộng bộng hai đầu... phần nào nói lên điều ấy. Bản thân Huế đã mang đẫm tính thơ, là một “bài thơ đô thị”, ngoài ra nó còn là đối tượng của các nhà thơ. Mà chả cứ nhà thơ, rất nhiều người bình thường, chả làm thơ bao giờ, đang yên đang lành bỗng nhiên qua Huế về cũng tức cảnh hì hụi làm thơ. Tức Huế của chúng ta vừa là chủ thể, vừa là khách thể của thơ. Nhưng nếu có ai đấy cắc cớ hỏi lại: Vậy thơ Huế là như thế nào? nó có gì khác với thơ... không Huế. Chà, món này gay đây, chí ít là với tôi, tôi chưa trả lời rành mạch được, dù nhiều lúc cũng thử bỏ thời gian ra nghiêm túc nghĩ thử rồi.

Tôi biết để chuẩn bị cho sự kiện thơ và văn hoá này, các anh các chị đang ở Huế đã làm rất nhiều sách về thơ Huế. Nào là 700 năm thơ Huế, Thơ Huế với lời bình, 1000 nhà thơ Huế... Ở Festival thơ trước thì là 2 tập “Dạ thưa xứ Huế”... Vậy thì xác định thơ Huế theo tiêu chí nào? Có không một trường phái thơ Huế trong dòng chảy thơ Việt?
Tôi là người Huế sống xa quê, nhưng vẫn đau đáu với Huế, thường xuyên đọc và tìm đọc thơ về Huế và thơ của người Huế và nhận ra có ít nhất là 4 dạng thơ Huế. Thứ nhất là thơ của các nhà thơ người Huế đang sống tại Huế. Thứ hai là thơ của các nhà thơ người Huế không ở Huế. Thứ ba là thơ của các nhà thơ không phải quê gốc Huế đang sinh sống công tác ở Huế và thứ 4 là thơ của mọi người yêu Huế, đi qua Huế hoặc chưa viết về Huế.

Thơ của người Huế đang sống ở Huế thì có thiên hướng bung phá, mở ra bên ngoài, một số mang tính triết luận khá cao, cấu trúc hiện đại, thiên về lý trí nhiều hơn cảm xúc, tất nhiên vẫn thâm trầm, hài hoà.
Thơ của người Huế xa quê thì thường là giàu xúc cảm, nhiều hình ảnh về Huế, tính hoài niệm cao, đằm sâu những suy nghĩ nhân tình thế thái. Trong thơ rưng rưng nỗi nhớ, niềm thương, lấp lánh kỷ niệm, những kỷ niệm buồn và đẹp, và tất nhiên là một nỗi khát khao trở về, về với những kỷ niệm xưa và những hoài bão hôm nay.
Thơ của người không phải gốc Huế đang ở Huế thì đa phong cách. Bên cạnh vùng văn hoá Huế đã trở thành của họ thì vùng văn hoá gốc của họ vẫn ảnh hưởng rất mạnh trong thơ họ, mà rõ nhất ở mảng này là thơ của nhà thơ Hồ Thế Hà. Ngoài ra là thơ của các nhà thơ Ngô Minh, Mai Văn Hoan, Nguyễn Khắc Thạch, Văn Cầm Hải... Số tác giả này hiện nay đang là lực lượng chủ lực của thơ Huế tại Huế.

Thơ của những người khác, không phải người Huế, không sống ở Huế, khá nhiều và cũng cũng rất đa dạng, từ cực hay tới hay vừa vừa và... dở.
Nếu gộp chung cả 4 loại trên vào một khái niệm chung là Thơ Huế thì ta thấy đặc trưng chung của thơ Huế là phần lớn thường khắc khoải, buồn, trầm ngâm, gắn với rêu phong, có cái bảng lảng êm đềm của tự nhiên khách quan nhưng cũng thâm trầm nội tâm, nhiều suy nghĩ, suy tưởng. Đọc thơ Huế vẫn thấy sự kiêu sa của quá vãng trong một tâm thế vừa bằng an vừa động cựa. Ít thấy cái tưng bừng tở mở, nhưng lại nhiều thân phận, day dứt dùng dằng. Nếu có bung phá, cách tân thì cũng chừng mực, nghĩ ngợi nhiều hơn là hành động. Nguyễn Khắc Thạch, Văn Cầm Hải chẳng hạn, những cách tân của họ vẫn đẫm trên cái nền truyền thống, vẫn bám vào cái hiện thực đăng đối mà lập ngôn, tức nó vẫn có một cái gì đó “rất Huế” không cắt nghĩa được, ở hồn, ở cốt, ở thẳm sâu những câu thơ, mạch thơ rất hiện đại.

Đã có lần tôi nhận xét với bạn bè, chỉ nguyên giọng Huế thôi, đọc thơ dưới trời mưa Huế, sau khi đã có vài ly, trời ạ, thơ vui cũng thành buồn, thơ dở cũng thành hay, thơ trúc trắc đến mấy cũng ngọt lịm như câu hò xứ Huế. Nó thăm thẳm, bâng khuâng, day dứt, da diết... khiến cả người đọc lẫn người nghe cùng... muốn khóc. Và tôi cho rằng đấy là thành công của thơ Huế. Nghĩ cho cùng, thơ chính là tâm trạng. Vậy thì khi anh truyền được tâm trạng của mình sang người khác thì đấy chính là đã thành công. Người có kinh nghiệm, nhất là những biên tập lâu năm thì sau khi nghe tác giả trực tiếp đọc thơ, bao giờ cũng tự đọc lại bài thơ bằng mắt. Nói vui thế để thấy, Huế có những điều kiện tuyệt vời làm nền cho thơ thăng hoa và lý giải tại sao người ta lại bảo Huế là xứ thơ. Người ta cũng bảo đã lên Đà Lạt thì phải... yêu và đã đến Huế thì phải... làm thơ. Thì phong cảnh ấy, con người ấy, giọng nói ấy, tốc độ ấy, tâm trạng ấy, sông ấy, núi ấy, mưa ấy và hàng chục yếu tố đẫm chất thơ nữa... làm sao mà chả buột ra thơ, không làm được thơ mới là lạ.

Nhưng từ làm thơ đến thành bài thơ hay là cả một đoạn trường. Huế có rất nhiều thơ viết về mình, nhưng những bài cực hay thì chưa tương xứng với số lượng khổng lồ kia. Tôi chưa kịp xem tập “Thơ Huế với lời bình” và tập “700 năm thơ Huế” khi viết tham luận này, nhưng tự cảm nhận của mình, tôi thích khoảng vài chục bài cực hay về Huế. Như thế cũng đã là quá nhiều, nhưng lại cũng là quá ít, tuỳ quan niệm từng người. Vấn đề là có quy luật gì không ở hiện tượng này. Phải chăng Huế giống như thơ lục bát. Dễ làm, ai làm cũng được, nhưng để hay thì cực khó. Có ngẫu nhiên chăng khi một trong những bài thơ hay của Hoàng Nhuận Cầm về Huế là bài “Giữa hai hàng lục bát”. Giữa hai hàng lục bát nhưng đây lại là bài thơ tự do phá thể, cuồn cuộn phong cách sông Hồng chứ không lặng lờ như sông Hương, dù nó viết về sông Hương. Nhưng bài thơ này vẫn đẫm Huế ở cách cảm, cách nghĩ, ở hình ảnh, nhịp điệu thơ, tỉ như: “Chân vấp ngã mấy lần bên Đập Đá/ một câu hò ai đã đỡ tôi lên”- Còn có thể nơi nào vào đấy nữa, nếu không là Huế. Nhờ bài thơ này mà hồi ấy khi đang còn là sinh viên, tôi thêm một lần yêu Huế, dẫu thú thật, nó cũng hơi ồn ào so với nhịp Huế.

Huế có một cái gì đó vô cùng lạ, không cắt nghĩa được, càng đi xa càng nhớ, càng thao thiết, càng tưởng tượng càng nôn nao, còn khi ở với nó thì lại khác. Tôi có một thống kê thú vị là khoảng 50% người Huế xa quê đặt tên con là Hương Giang hoặc liên quan đến Sông Hương Núi Ngự. Còn những người đang ở Huế thì ít đặt tên con là Hương Giang hơn. Hiếm có một con sông nào trên trái đất này có vinh dự ấy. Ai đó bảo Huế là một cô gái đỏng đảnh, ở gần thì lãnh đạm, thậm chí là... cãi nhau, nhưng đi xa thì nhớ thương đứt ruột. Ngay cố nhà thơ Thu Bồn cũng thế, bài thơ cực hay của ông là bài “Tạm biệt”, tất nhiên là ông viết trong tâm thế cuống quýt chia tay, chuẩn bị xa. Còn một bài nữa cũng hay của ông, ít người biết, ông viết khi... nhìn về Huế từ trong chiến tranh:
Tôi ngỡ ngàng và tưởng không bao giờ gặp Huế,
đèo Hải Vân cao vút lỗ châu mai,
lô cốt giặc đen ngòm bốn phía.
Biển và mây sóng vỡ vụn chân gành.
Quê hương mẹ tôi chưa về được,
huống chi em xa cách mấy thôi đường.
Huế mờ trong khói thuốc,
Huế mờ trong đạn bom,
Huế chìm trong mưa lụt.
Cầu Trường Tiền bắc giữa giấc mơ tôi.
Nhìn bướm tím rừng sâu cứ ngỡ màu tím Huế...
Còn tôi, cũng thế, tôi toàn viết về Huế khi đã không còn Huế, khi Huế đã lặng lẽ lùi dần sau chiều xe chạy. phát biểu.
V.C.H

(nguồn: TCSH số 208 - 06 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H